Yên Bái trên đường hội nhập và phát triển
Yên Bái, cửa ngõ vùng Tây Bắc, cầu nối trung tâm các tỉnh miền núi, trung du phía bắc nước ta. Những năm qua, vượt qua những khó khăn của một tỉnh miền núi, Yên Bái đã không ngừng vươn lên, tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH với mục tiêu đưa Yên Bái trở thành tỉnh phát triển toàn diện.Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân gần 13%, đứng thứ tư các tỉnh trung du và miền núi phía bắc; thu nhập bình quân đầu người đạt 10,8 triệu đồng, gấp 2,5 lần so với năm 2006. Giá trị sản xuất toàn ngành nông, lâm, thủy sản bình quân tăng 5,64%/năm. Kinh tế trang trại được chú trọng và phát triển. Việc thâm canh lúa trên đất dốc ở vùng cao, chuyên canh ở vùng thấp đã được Yên Bái vận dụng tốt và có hiệu quả. Giữ vững, mở rộng và hình thành thêm một số vùng sản xuất chuyên canh có quy mô lớn về diện tích và sản phẩm gắn với chế biến và thị trường. Nổi bật là vùng lúa năng suất, chất lượng cao ở thị xã Nghĩa...
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân gần 13%, đứng thứ tư các tỉnh trung du và miền núi phía bắc; thu nhập bình quân đầu người đạt 10,8 triệu đồng, gấp 2,5 lần so với năm 2006. Giá trị sản xuất toàn ngành nông, lâm, thủy sản bình quân tăng 5,64%/năm. Kinh tế trang trại được chú trọng và phát triển. Việc thâm canh lúa trên đất dốc ở vùng cao, chuyên canh ở vùng thấp đã được Yên Bái vận dụng tốt và có hiệu quả. Giữ vững, mở rộng và hình thành thêm một số vùng sản xuất chuyên canh có quy mô lớn về diện tích và sản phẩm gắn với chế biến và thị trường. Nổi bật là vùng lúa năng suất, chất lượng cao ở thị xã Nghĩa Lộ, huyện Văn Chấn, Văn Yên, Lục Yên; đưa lương thực bình quân đầu người từ 277 kg năm 2005 tăng lên 318 kg năm 2010. Yên Bái đã bảo đảm ổn định an ninh lương thực tại chỗ.
Phát huy tiềm năng, thế mạnh từ kinh tế rừng và đẩy mạnh trồng rừng, đã tạo được vùng sản xuất nguyên liệu giấy, gỗ cho công nghiệp chế biến lớn của tỉnh và trở thành một trong những tỉnh dẫn đầu của vùng về trồng rừng sản xuất; ở nhiều nơi, sản xuất lâm nghiệp đã trở thành nghề chính và làm giàu được từ nghề rừng. Vùng quế đặc sản ở huyện Văn Yên, Trấn Yên, Văn Chấn tiếp tục phát triển mạnh với hơn 27.000 ha, gắn với các cơ sở chế biến công nghiệp tập trung có quy mô phù hợp, nâng cao hiệu quả sản xuất và thu nhập của người trồng quế. Vùng sản xuất măng tre Bát Độ ở huyện Trấn Yên được mở rộng và phát huy hiệu quả, mang lại thu nhập đáng kể cho người dân…
Đảng bộ xác định công nghiệp là khâu đột phá trong phát triển kinh tế của tỉnh. Yên Bái đã tập trung khai thác các tiềm năng, lợi thế về tài nguyên và lao động để phát triển công nghiệp; tổ chức thực hiện có hiệu quả chính sách thu hút đầu tư, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong sản xuất. Nhiều dự án công nghiệp quan trọng đã được đưa vào sản xuất như: hai nhà máy xi-măng lò quay với tổng công suất 1,2 triệu tấn/năm, các nhà máy khai thác, chế biến đá bột, đá hạt với tổng công suất 450 nghìn tấn/năm, công nghiệp thủy điện, chế biến nông, lâm, thổ sản… góp phần tăng nhanh năng lực mới và giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh. Đến nay, đã quy hoạch, xây dựng năm khu và 12 cụm công nghiệp tập trung với tổng diện tích hơn 2.000 ha; đã có 53 dự án đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp với tổng số vốn đăng ký 2.355 tỷ đồng. Đó là tiền đề quan trọng để sản xuất công nghiệp những năm tới có quy mô lớn hơn và phát triển về chiều sâu.
Thương mại, dịch vụ có tốc độ tăng trưởng cao, sản phẩm đa dạng, chất lượng được bảo đảm. Việc xây dựng và thực hiện tốt các cơ chế, chính sách; đẩy nhanh xây dựng kết cấu hạ tầng đã góp phần thu hút các nguồn lực cho phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Hoạt động tài chính, tín dụng đạt nhiều kết quả, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của sản xuất và đời sống. Đặc biệt, năm năm qua, tỉnh đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, giải quyết những vấn đề trọng tâm, cấp bách để thúc đẩy phát triển nhanh kinh tế – xã hội vùng cao và chỉ đạo thực hiện đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhất là đối với hai huyện đặc biệt khó khăn Trạm Tấu và Mù Cang Chải.
Văn hóa – xã hội có nhiều tiến bộ, những năm qua, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên. Bình quân 3,5 người dân có một người đi học. Năm 2007 tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở; năm 2009 đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi. Số trường đạt chuẩn quốc gia tăng năm lần so với năm 2005. Chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân được cải thiện; công tác dân số, bảo vệ, chăm sóc trẻ em được thực hiện tốt. Bình quân có 33,7 giường bệnh, bảy bác sĩ và 0,4 dược sĩ đại học trên mười nghìn dân. Toàn tỉnh đã có 141 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế. Văn hóa, thông tin, truyền thông, báo chí, phát thanh, truyền hình, thể thao có bước phát triển, góp phần nâng cao đời sống văn hóa và tinh thần của nhân dân. Hằng năm, tạo được hơn 17.000 việc làm mới cho người lao động. Tỷ lệ hộ nghèo bình quân mỗi năm giảm 4,59%. Xóa được 12.629 ngôi nhà dột nát và nhà tạm cho người nghèo, các gia đình thuộc diện chính sách. Quốc phòng – an ninh được củng cố, tăng cường. Chất lượng, hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp được nâng lên. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân được phát huy.
Công tác xây dựng Đảng được Đảng bộ tỉnh thường xuyên chăm lo, quan tâm trên cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức; có nhiều đổi mới về phương thức lãnh đạo. Công tác tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được đẩy mạnh. Chất lượng học tập, nghiên cứu, quán triệt, tổ chức thực hiện các Nghị quyết của Đảng được nâng lên một bước; gắn học tập với xây dựng chương trình hành động thực hiện nghị quyết cụ thể, thiết thực, đồng thời tăng cường kiểm tra, đôn đốc thực hiện. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng hoạt động báo chí, thông tin, văn hóa, văn nghệ, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng, truyền thống cách mạng cho cán bộ và nhân dân được chú trọng. Chủ động định hướng tư tưởng và đấu tranh chống chiến lược 'diễn biến hòa bình' của các thế lực thù địch trên mọi lĩnh vực.
Cuộc vận động 'Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh' được Đảng bộ tỉnh triển khai thực hiện nghiêm túc, đồng bộ và có sáng tạo, được cả hệ thống chính trị và nhân dân quan tâm hưởng ứng, tạo ra đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn xã hội. Thành lập và duy trì tốt hoạt động của các ban chỉ đạo Cuộc vận động ở các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị. Tổ chức tốt việc học tập các chuyên đề về tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; nhiều nơi đã cụ thể hóa bằng việc xây dựng các chuẩn mực đạo đức, chỉ tiêu, tiêu chí cụ thể trong việc 'làm theo'. Nhiều cuộc thi, hội thi, tọa đàm, giao lưu, hội thảo, các hoạt động văn hóa, thông tin về chủ đề Cuộc vận động được tổ chức với nội dung, hình thức phong phú, hấp dẫn, thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Đã tổ chức tốt cuộc vận động sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về chủ đề 'Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh'. Qua hơn ba năm thực hiện, Cuộc vận động đã đạt được kết quả tích cực, tạo ra những chuyển biến rõ rệt trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là sự chuyển biến về phẩm chất đạo đức, lối sống, tinh thần trách nhiệm với công việc, với nhân dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên và ngày càng có nhiều tấm gương tiêu biểu trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Cuộc vận động đã góp phần thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị, địa phương.
Công tác xây dựng Đảng về tổ chức được triển khai đồng bộ, đạt kết quả tích cực. Thường xuyên củng cố, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, gắn với củng cố các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là ở cơ sở. Trong nhiệm kỳ đã xóa được tình trạng sinh hoạt chi bộ ghép ở 628 thôn, bản. Tất cả các thôn, bản trong tỉnh đều có chi bộ đảng. Chất lượng sinh hoạt chi bộ có sự chuyển biến tích cực, tập trung vào quán triệt chủ trương và bàn biện pháp giải quyết những vấn đề cụ thể, trọng tâm ở cơ sở; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong tổ chức và sinh hoạt đảng, xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Hầu hết các chi bộ, đảng bộ đều phát huy được vai trò hạt nhân lãnh đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương, đơn vị. Công tác đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên đã đi vào thực chất. Trung bình hằng năm, tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh đạt 78,17%, đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt 86,31%. Công tác phát triển đảng viên được chú trọng, trong nhiệm kỳ đã kết nạp 8.950 đảng viên, vượt chỉ tiêu đề ra; tỷ lệ đảng viên trẻ, nữ, người dân tộc thiểu số, đảng viên có trình độ chuyên môn và lý luận chính trị đều tăng khá so với đầu nhiệm kỳ.
Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng được thực hiện theo đúng quy định của Điều lệ Đảng. Kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm, xử lý có hiệu quả những vấn đề bức xúc mà đảng viên và nhân dân quan tâm. Công tác giám sát đã kịp thời uốn nắn, nhắc nhở, cảnh báo, ngăn ngừa các thiếu sót, khuyết điểm của tổ chức đảng và đảng viên. Trong nhiệm kỳ, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã tiến hành kiểm tra 841 tổ chức đảng, 2.502 đảng viên; giám sát theo chuyên đề đối với 542 tổ chức đảng, 2.547 đảng viên.
Công tác vận động quần chúng được các cấp ủy quan tâm chỉ đạo, trọng tâm là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác vận động quần chúng, phát huy tốt hơn vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể trong việc tập hợp, thu hút đoàn viên, hội viên và nhân dân; nâng cao hiệu quả công tác dân vận của chính quyền. Các cấp, các ngành chú trọng xây dựng, thực hiện các quy chế, chương trình phối hợp về công tác dân vận. Thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật về dân tộc, tôn giáo. Tổ chức thực hiện phong trào thi đua 'Dân vận khéo' đạt kết quả bước đầu; mô hình 'Dân vận khéo' được nhân ra diện rộng. Tăng cường thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân; tuyên truyền, vận động nhân dân tự giác thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Phương thức lãnh đạo của Đảng được quan tâm, đổi mới; chú trọng về mối quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy; cơ chế phối hợp và quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng ủy với lãnh đạo cơ quan, đơn vị. Lãnh đạo đối với hoạt động của HĐND, UBND, MTTQ, các đoàn thể và các cơ quan tư pháp thông qua những chủ trương, định hướng đối với hoạt động của từng tổ chức; phát huy tính năng động, sáng tạo, bảo đảm hoạt động theo Hiến pháp, pháp luật, quy định, điều lệ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị. Đổi mới lãnh đạo các khâu trong công tác cán bộ; mở rộng việc phân cấp quản lý tổ chức và cán bộ; thí điểm chủ trương đồng chí bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch UBND cấp xã; thí điểm đại hội bầu trực tiếp ban thường vụ, bí thư, phó bí thư cấp ủy. Phong cách, lề lối làm việc của cấp ủy, tổ chức đảng đổi mới theo hướng khoa học, sâu sát cơ sở. Công tác xây dựng, ban hành, tổ chức quán triệt và thực hiện nghị quyết, chỉ thị được cải tiến; chú trọng kiểm tra việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị; cải tiến chế độ hội họp, thông tin báo cáo.
Những thành tựu quan trọng và toàn diện Yên Bái đạt được những năm qua là tiền đề để tỉnh tiếp tục vững bước trên con đường hội nhập và phát triển trong thời kỳ mới. Nắm bắt được thời cơ, vận hội mới, Yên Bái sẽ thực hiện thành công mục tiêu trở thành tỉnh phát triển khá vào năm 2015, tạo nền tảng để đến năm 2020 trở thành trung tâm kinh tế của vùng Tây Bắc.
Theo Nhandan
Ý kiến ()