Xóa đói, giảm nghèo: Phép đo đa chiều cùng thành công đa diện
Việt Nam trở thành một trong số những nước đi đầu ở châu Á-Thái Bình Dương trong việc áp dụng phương pháp đo lường nghèo đa chiều và đạt nhiều thành tựu giảm nghèo ở tất cả các chiều cạnh.
Tháng cao điểm “Vì người nghèo” năm 2022 do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động, diễn ra từ ngày 17/10-18/11/2022.
Đây là hoạt động thiết thực nhằm hưởng ứng phong trào thi đua “Vì người nghèo- Không để ai bị bỏ lại phía sau” do Thủ tướng Chính phủ phát động.
Giảm nghèo ở nông thôn
Nông nghiệp là trụ cột của nền kinh tế đất nước nên phát triển nông thôn luôn là mối quan tâm hàng đầu của chính phủ Việt Nam.
Chính sách nông nghiệp của Việt Nam trong giai đoạn 1986-2000 tập trung vào việc xóa đói-giảm nghèo, chuyển dần từ nền nông nghiệp tự cung, tự cấp sang nền nông nghiệp thương mại hóa. Từ năm 2000 trở đi là giai đoạn đa dạng hóa nông nghiệp và hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Vào năm 2010, Chính phủ đã xây dựng chiến lược phát triển nông thôn và chiến lược này được thực hiện thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Quá trình triển khai được chia thành các giai đoạn năm năm. Chương trình nông thôn mới được Chính phủ xác định là nhiệm vụ lâu dài, thường xuyên và liên tục, có điểm khởi đầu nhưng không có điểm kết thúc.
Chương trình nông thôn mới hỗ trợ hơn 9.000 xã trên khắp 63 tỉnh, thành phố của Việt Nam để nâng cấp dịch vụ và hạ tầng ở cộng đồng, nâng cao thu nhập và năng suất, đồng thời giảm chênh lệch kinh tế-xã hội giữa các khu vực nông thôn và thành thị ở Việt Nam.
Chương trình có 11 nhóm hoạt động chính với 19 chỉ tiêu nhằm đo lường sự thay đổi liên quan đến nghèo đói, giáo dục, y tế, giao thông, cấp nước, thủy lợi, sinh kế, sản xuất nông nghiệp, văn hóa, năng lượng, các vấn đề môi trường, truyền thông và an ninh.
Các xã sẽ đánh giá các nhu cầu ưu tiên theo các chỉ tiêu này và lập kế hoạch để đáp ứng được các tiêu chí đó. Về nguyên tắc, chương trình sẽ hỗ trợ bằng cách phân bổ nguồn kinh phí cần thiết để đáp ứng những nhu cầu ở từng xã.
Kể từ khi khởi động, chương trình nông thôn mới đã thu hút được gần 3.000 tỷ đồng. Nguồn lực cho phát triển nông thôn mới được tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau.
Trong giai đoạn đầu (2011-2015), nguồn vốn ở nhiều xã chủ yếu tập trung vào mục tiêu về cơ sở hạ tầng. Ngoài ra, chương trình đã đạt được hiệu quả trong việc tăng cường lập kế hoạch cấp địa phương, đặc biệt là những nơi có các dự án do các nhà tài trợ hỗ trợ thực hiện.
Việc thực hiện chương trình nông thôn mới được phân cấp, các quyết định chi cho những hạng mục nào cần thiết được thực hiện ở cấp tỉnh, huyện và xã. Chi đầu tư chủ yếu tập trung vào các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu như giao thông nông thôn, trường học, nhà văn hóa, hệ thống thủy lợi và nước sạch. Ngân sách trung ương tập trung vào chi thường xuyên, dành cho hỗ trợ sản xuất và chuỗi giá trị, đào tạo nghề, nâng cao năng lực, truyền thông, giám sát và đánh giá, bảo trì, giáo dục và vệ sinh môi trường.
Đến năm 2020, gần 61% số xã (5.012 xã) đã đạt tất cả 19 tiêu chí, cao hơn mục tiêu kế hoạch là 50%.
Nhờ có chương trình nông thôn mới, khoảng cách phát triển giữa thành thị và nông thôn đã dần được thu hẹp. Thu nhập ở khu vực nông thôn tăng gấp 2,78, tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn giảm từ 17,35% xuống còn 5,9% trong 10 năm.
Kinh tế nông thôn liên tục tăng trưởng, chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp-dịch vụ. Tỷ lệ lao động nông nghiệp đã giảm mạnh từ 48,2% xuống 38,1%. Thu nhập từ hoạt động nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm 22% tổng thu nhập của hộ gia đình nông thôn.
Xóa đói ở miền núi
Vùng dân tộc thiểu số và miền núi gồm 52/63 tỉnh, thành phố (chiếm 82,5%), với 457/713 huyện, thị xã (chiếm 64,1%), 5.266/11.162 xã, phường, thị trấn (chiếm 47,2%), trải rộng từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, với diện tích gần 250 nghìn km2, chiếm 3/4 diện tích cả nước.
Vùng dân tộc thiểu số và miền núi giàu tiềm năng, lợi thế về kinh tế nông-lâm nghiệp, khoáng sản, thủy điện, du lịch, kinh tế biên mậu… nhưng đang là “lõi nghèo” của cả nước.
Kết quả điều tra, thu thập thông tin về thực trạng kinh tế-xã hội của 53 dân tộc thiểu số do Ủy ban Dân tộc phối hợp với Tổng cục Thống kê thực hiện năm 2019, cho thấy tỷ lệ hộ nghèo trong tổng số hộ dân tộc thiểu số là 22,2%.
Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ khu vực miền núi, vùng dân tộc thiểu số, nhất là các chính sách giảm nghèo nhằm hỗ trợ người dân tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt và vệ sinh, tiếp cận thông tin. Đó là chính sách hỗ trợ 100% bảo hiểm y tế cho đồng bào dân tộc thiểu số ở các địa bàn đặc biệt khó khăn; chính sách miễn giảm học phí, hỗ trợ các điều kiện học tập, chính sách nội trú, bán trú cho học sinh dân tộc thiểu số; chính sách hỗ trợ nhà ở, nước sinh hoạt, hỗ trợ phương tiện nghe nhìn…
Để tạo điều kiện cho người dân tổ chức sản xuất, nâng cao thu nhập, Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ cây trồng, vật nuôi, hỗ trợ sản xuất, tập huấn kỹ thuật, quy trình sản xuất, hỗ trợ vay vốn tín dụng ưu đãi với lãi suất thấp cho hộ nghèo dân tộc thiểu số; hỗ trợ đất sản xuất, khai hoang ruộng bậc thang, trồng rừng; đầu tư hệ thống hồ đập, thủy lợi, đường vào khu sản xuất, tạo điều kiện cho người dân khai thác tiềm năng, thế mạnh của địa phương.
Xác định vấn đề tăng cường hệ thống cơ sở vật chất cho địa bàn miền núi là giải pháp quan trọng nhằm tạo điều kiện về hạ tầng sản xuất và dân sinh cho người dân trên địa bàn, trong những năm qua, Nhà nước đã có nhiều chương trình, dự án ưu tiên đầu tư cho địa bàn này, như chương trình trung tâm cụm xã, chương trình 135, chương trình 30a, chương trình giao thông miền núi, chương trình kiên cố hóa trường, lớp học, trạm y tế xã, trái phiếu Chính phủ… ưu tiên đầu tư các dự án ODA của Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) qua nhiều giai đoạn.
Nguồn lực thực hiện các chính sách hỗ trợ trực tiếp người dân luôn được Nhà nước quan tâm bố trí, cân đối ngân sách cho các địa phương thực hiện, trong thời gian qua Nhà nước đã bố trí gần nghìn tỷ đồng để thực hiện hỗ trợ về giáo dục, y tế, phát triển hạ tầng, kinh tế-xã hội, vùng dân tộc thiểu số và miền núi, chiếm 71,4% tổng chi cho các nhiệm vụ này của cả nước, chiếm 80% tổng chi giảm nghèo của vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Nguồn lực cho chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững được ưu tiên bố trí thực hiện cho địa bàn dân tộc, miền núi chiếm 70% tổng vốn Chương trình qua các giai đoạn; ngoài ra, nguồn vốn cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội chiếm 52,5% tổng dư nợ cả nước trên địa bàn miền núi, dân tộc.
Với sự quan tâm ưu tiên đầu tư của Nhà nước, trách nhiệm chỉ đạo thực hiện của các địa phương và sự nỗ lực vươn lên của đồng bào nghèo dân tộc thiểu số, công tác xóa đói giảm nghèo đạt nhiều kết quả tích cực.
Theo Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo (thuộc Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội), đến nay, 100% các xã đã có đường ôtô đến trung tâm; 99% trung tâm xã và 80% thôn có điện; 65% xã có hệ thống thủy lợi nhỏ đáp ứng yêu cầu sản xuất và đời sống; 88% thôn có đường cho xe cơ giới và 42% thôn có đường giao thông đạt chuẩn; trên 50% xã có trạm y tế đạt chuẩn.
Tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo, nhất là hộ đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn giảm nhanh theo từng giai đoạn (giảm trung bình khoảng 3,5%/năm), riêng tỷ lệ hộ nghèo các huyện nghèo giảm bình quân trên 5%/năm qua các giai đoạn.
Những thành tích đa diện
Vào năm 2006 Việt Nam đã tuyên bố hoàn thành Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) về xóa bỏ tình trạng nghèo đói cùng cực và thiếu đói, về đích trước 10 năm so với thời hạn (năm 2015).
Năm 2015, Chính phủ Việt Nam đã ban hành chuẩn nghèo đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020, đánh dấu bước quan trọng trong quá trình chuyển đổi của Việt Nam từ đo lường nghèo theo thu nhập sang đo lường đa chiều. Theo đó, xác định chuẩn nghèo mới thay thế cho chuẩn nghèo cũ với các tiêu chí thoát nghèo cao hơn. Chuẩn nghèo xác định theo 10 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản gồm: y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin.
Việt Nam đã trở thành một trong số những nước đi đầu ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương trong việc áp dụng phương pháp đo lường nghèo đa chiều và đạt nhiều thành tựu giảm nghèo khá toàn diện ở tất cả các chiều cạnh.
Theo Báo cáo do Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Ủy ban Dân tộc, Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp thực hiện, trong thập kỷ qua, thành tựu giảm nghèo ở Việt Nam đã rất ấn tượng cho dù được đo lường bởi bất kể phương pháp nào.
Đáng chú ý, tỷ lệ nghèo đa chiều giảm liên tục và đáng kể từ 18,1% năm 2012 xuống 10,9% năm 2016 và 4,4% năm 2020.
Kết quả giảm nghèo đạt và vượt các mục tiêu, chỉ tiêu mà Quốc hội, Chính phủ giao. Hộ nghèo từ 9,88% năm 2015 (năm đầu kỳ) giảm xuống còn 2,75% năm 2020 (năm cuối kỳ), trong 5 năm giảm bình quân 1,43%/năm (chỉ tiêu: giảm 01%-1,5%/năm); hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm bình quân 04%/năm (chỉ tiêu: giảm 03%-04%/năm); hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm bình quân 5,4%/năm (chỉ tiêu: giảm 04%/năm).
Có được kết quả đó là do Quốc hội, Chính phủ rất quan tâm, bố trí nguồn lực từ ngân sách nhà nước và huy động nguồn lực toàn xã hội để thực hiện chương trình giảm nghèo.
Tổng nguồn lực đã được bố trí, huy động để thực hiện chương trình khoảng 120.000 tỷ đồng; trong đó, nguồn vốn Trung ương (35%), vốn huy động xã hội hóa hỗ trợ an sinh xã hội và giảm nghèo của các địa phương (41%), vốn ủng hộ Quỹ “Vì người nghèo” và các hoạt động an sinh xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp (24%).
Cả nước hiện có hơn 13.000 dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo hiệu quả với trên 2,2 triệu hộ hưởng lợi; 5.500 lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số được hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài.
Cùng với đó, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội thiết yếu, liên kết vùng được ưu tiên đầu tư đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều địa phương phát triển kinh tế-xã hội vươn lên thoát nghèo, ra khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn.
Theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia giai đoạn 2021-2025, ước tính tại thời điểm tháng 1/2022, cả nước có khoảng 16,6% hộ dân cư có thu nhập dưới mức sống tối thiểu; trong đó, hộ nghèo là 10,83%, hộ cận nghèo là 5,77%./.
Ý kiến ()