Xây dựng mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội cho vùng trung du và miền núi phía bắc
Động lực tăng trưởng kinh tế – xã hội khu vực trung du và miền núi phía bắc bước đầu được hình thành song những bất cập của hệ thống chỉ tiêu cũ liên quan đến vùng cũng bộc lộ rõ, cần tiếp tục xử lý.
Hội thảo Nghiên cứu khả năng xây dựng mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội cấp độ vùng ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc trong bối cảnh chuyển đổi số. |
Sáng 27/10, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức Hội thảo Nghiên cứu khả năng xây dựng mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội cấp độ vùng ở vùng trung du và miền núi phía bắc trong bối cảnh chuyển đổi số”.
Sự kiện nằm trong khuôn khổ Chương trình Cải cách kinh tế vĩ mô/Tăng trưởng xanh do Tổ chức Hợp tác quốc tế Cộng hòa liên bang Đức (GIZ) tài trợ.
Phát biểu tại hội thảo, bà Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM nhấn mạnh: Liên kết vùng là một trong những nhiệm vụ quan trọng, giúp chuyển đổi từ nền kinh tế truyền thống sang kinh tế số. Trên cơ sở đó, cần tạo cơ chế tăng cường khả năng liên kết vùng, kết nối giữa các doanh nghiệp trong vùng. Khả năng kết nối này không chỉ mang tính chất nội vùng, liên vùng mà cần mở rộng trong phạm vi cả nước và toàn cầu.
Là khu vực khó khăn nhất cả nước, vùng trung du và miền núi phía bắc có nhiều tiềm năng nhưng chưa được khai thác và phát triển xứng tầm.
Tính đến cuối năm 2021, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong vùng gần bằng mức bình quân cả nước (26,1%); số doanh nghiệp đang hoạt động chỉ chiếm 4,3% tổng số doanh nghiệp; thu nhập bình quân người lao động trong doanh nghiệp bằng 82,7% mức trung bình cả nước. Thu hút đầu tư nước ngoài còn rất hạn chế, chỉ chiếm 3,4% tổng số dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
“Những số liệu này cho thấy, mặc dù đã có nhiều nỗ lực và một số tỉnh trong vùng đã đạt được những thành quả kinh tế ấn tượng nhưng nhìn chung, khu vực trung du và miền núi phía bắc vẫn là vùng nghèo, khó khăn nhất cả nước”, ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp CIEM nhấn mạnh.
Trên cơ sở Báo cáo do CIEM thực hiện và công bố, các đại biểu tập trung thảo luận các nội dung liên quan đến khung pháp lý về thể chế kinh tế vùng, cơ chế liên kết vùng, khung chính sách liên quan đến xây dựng các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội cấp vùng. Các đại biểu cũng phân tích những kinh nghiệm quốc tế về xây dựng mục tiêu kinh tế-xã hội cấp vùng Đức, Hàn Quốc, Trung Quốc, Malaysia. Đồng thời, các đại biểu thảo luận về các yêu cầu và điều kiện cần thiết đối với xây dựng mục tiêu cấp độ vùng, từ đó kiến nghị các nhóm giải pháp và lộ trình xây dựng mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội đối với vùng trung du và miền núi phía bắc.
Theo ông Nguyễn Anh Dương, các chỉ tiêu hiện có đều cho thấy tình hình kinh tế-xã hội vùng trung du và miền núi phía bắc tiếp tục phát triển và đạt được nhiều kết quả tích cực trong những năm qua. Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội bước đầu được triển khai có hiệu quả.
Nhóm chính sách vùng trung du và miền núi phía bắc và chỉ tiêu kinh tế xã hội đang ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội được xem xét, thông qua, bước đầu bảo đảm tính khả thi và có thể đo lường, giám sát được về phương pháp và yêu cầu thống kê.
Động lực tăng trưởng kinh tế xã hội khu vực trung du và miền núi phía bắc bước đầu được hình thành. Tuy nhiên, những bất cập của hệ thống chỉ tiêu cũ liên quan đến vùng trung du và miền núi phía bắc cần tiếp tục xử lý.
Cụ thể, đó là việc chưa có thể chế trực tiếp sử dụng kết quả theo dõi, đánh giá một số chỉ tiêu cấp vùng một cách định kỳ phục vụ công tác điều hành; phương pháp tính toán thu thập số liệu và gộp từ số liệu cấp địa phương trong vùng lên số liệu cấp vùng còn đang hoàn thiện; quy hoạch định hướng phát triển cho vùng trên cơ sở tính đặc thù của các địa phương trong vùng còn hạn chế; phân cấp thực hiện chưa rõ ràng, nguồn lực (tài chính, nhân lực) để bảo đảm xây dựng, điều chỉnh và theo dõi, giám sát các chỉ tiêu thống kê kinh tế-xã hội ở các địa phương trong vùng còn khó khăn,…
Bản thân các chỉ tiêu đánh giá phát triển vùng trung du và miền núi phía bắc hiện vẫn chỉ cộng gộp từ các địa phương nên chưa đánh giá được hết đặc thù của từng địa phương trong vùng. Trong khi đó, phân cấp xây dựng, triển khai và đánh giá mục tiêu vẫn còn nhiều lúng túng, đặc biệt là ở cấp địa phương. Hội đồng điều phối vùng đã được thành lập nhưng chưa có quy chế hoạt động, chưa có quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức, cá nhân, quy chế thi đua, cơ chế khen thưởng, xử phạt tập thể nếu không hoàn thành nhiệm vụ.
Góp ý cho Báo cáo, ông Nguyễn Ngọc Quang, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành nghề nông thôn Việt Nam lưu ý, việc xây dựng mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội cấp độ vùng ở vùng trung du và miền núi phía bắc trong bối cảnh chuyển đổi số nói riêng và vùng kinh tế trong cả nước nói chung cần giải được bài toán quy hoạch các vùng nguyên liệu, dược liệu để phát huy thế mạnh của từng tỉnh cũng như cả vùng.
Trong đó cần chú ý đến vấn đề khí hậu, thổ nhưỡng, truyền thống canh tác của bà con đối với các loại cây trồng, dược liệu để không lặp lại tình trạng nhiều tỉnh lân cận vùng chè Thái Nguyên từng phải chặt bỏ cây chè vì phát triển tự phát không theo quy hoạch. Hoặc các nhà máy sản xuất phân bón phải nhập khẩu nguyên liệu giá cao trong khi nhiều tỉnh miền núi phía bắc dư thừa ngô, sắn vì không có người thu mua…
Từ số liệu nghiên cứu, CIEM đề xuất, một số nhiệm vụ chủ yếu cần triển khai trong thời gian tới cho vùng trung du và miền núi phía bắc. Đó là tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế vùng và liên kết vùng, nhằm tạo động lực cho phát huy lợi thế so sánh của cả vùng và từng địa phương trong vùng; Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, trong đó có nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thống kê vùng; Thử nghiệm xây dựng và giao chỉ tiêu ở cấp vùng, lộ trình thực hiện các chỉ tiêu cấp vùng theo từng năm, gắn với các nhiệm vụ cụ thể được Hội đồng điều phối vùng trực tiếp điều hành và theo dõi; Đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số…
Ý kiến ()