Xây dựng chính sách thuế tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong nước
Là loại thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng nên thuế giá trị gia tăng (GTGT) giữ vai trò quan trọng trong nguồn thu ngân sách. Chính vì vậy, những điểm mới trong đề nghị xây dựng Luật Thuế GTGT (sửa đổi) mà Bộ Tài chính (cơ quan chủ trì soạn thảo) xây dựng và lấy ý kiến nhận được sự quan tâm lớn từ xã hội.
Nâng cao sức cạnh tranh nội địa
Bộ Tài chính cho biết, mục tiêu đề nghị xây dựng Luật Thuế GTGT (sửa đổi) nhằm mở rộng cơ sở thu thuế; nghiên cứu sửa đổi một số quy định để chống gian lận và chống thất thu thuế GTGT, bảo đảm thu đúng, thu đủ vào ngân sách nhà nước; sửa đổi bất cập trong quy định hiện hành để bảo đảm tính minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện. Đề nghị xây dựng Luật Thuế GTGT (sửa đổi) đưa ra 5 nhóm chính sách, bao gồm: Hoàn thiện quy định về người nộp thuế GTGT; hoàn thiện quy định về đối tượng không chịu thuế GTGT; hoàn thiện quy định về giá tính thuế GTGT; hoàn thiện quy định về khấu trừ thuế GTGT; hoàn thiện quy định về hoàn thuế GTGT.
Gia đình ông Yaga, dân tộc K’ho ở xã Tân Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng chăm sóc cây cà phê và hồ tiêu. Ảnh: TRẦN VIỆT |
Theo Điều 5 Luật Thuế GTGT hiện hành, quy định những đối tượng không chịu thuế gồm: Giống cây trồng, giống vật nuôi, nông sản chưa chế biến, phân bón, máy nông nghiệp, tàu cá, thức ăn chăn nuôi, muối, phần mềm máy tính… Điều này dẫn tới việc những doanh nghiệp trong nước sản xuất hàng hóa thuộc nhóm này đang được hưởng lợi không phải đóng thuế GTGT cho sản phẩm đầu ra. Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất, kinh doanh, họ lại gặp bất lợi khi không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào.
Một khảo sát từ Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho thấy, những doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong nước (thuộc lĩnh vực không chịu thuế GTGT đầu ra ở trên) có số thuế GTGT chưa được khấu trừ đầu vào liên quan đến các loại chi phí: Nhà xưởng, năng lượng (điện, than, xăng, dầu), vận tải, mua sắm máy móc, trang thiết bị, phương tiện giao thông, bao bì, in ấn, quảng cáo và một số chi phí khác. Theo phản ánh từ một số doanh nghiệp, tỷ lệ thuế GTGT chưa được khấu trừ có thể dao động từ 1% đối với một số loại nông sản và đến 8% đối với phân bón, máy móc.
Mặt khác, những sản phẩm tương tự được nhập khẩu từ nước ngoài vừa không phải chịu thuế GTGT khi nhập khẩu lại vừa được hoàn thuế GTGT khi xuất khẩu ra khỏi nước bản địa. Vì vậy, hàng hóa nhập khẩu đang có chi phí thuế thấp hơn hàng hóa sản xuất trong nước đối với các mặt hàng thuộc diện không chịu thuế. Điều này dẫn tới tác động không mong muốn là bảo hộ ngược, khuyến khích nhập khẩu hàng hóa thay vì sản xuất trong nước. Do vậy cần sớm khắc phục trong lần sửa đổi Luật Thuế GTGT này, nếu không sẽ khiến sản xuất trong nước tiếp tục chịu thua thiệt và giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trao đổi với phóng viên, ông Lê Việt Hà, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng và công nghệ Việt Nhật nhận định, khi đàm phán các hiệp định thương mại tự do (FTA), Việt Nam chỉ chấp nhận hạ thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng của các nước đối tác theo nguyên tắc có đi có lại. Điều đó có nghĩa là các nước đối tác cũng phải tạo thuận lợi về thuế nhập khẩu cho hàng hóa của Việt Nam khi gia nhập thị trường của họ. Tuy nhiên, những quy định về đối tượng không chịu thuế GTGT khiến nước ta đang tạo lợi thế cho hàng nhập khẩu và gây thất thoát nguồn thu ngân sách nhà nước (do miễn thuế nhập khẩu đối với những hàng hóa nước ngoài thuộc diện nêu trên).
Lựa chọn mức thuế suất phù hợp
Nhiều chuyên gia nhận định, đề nghị xây dựng Luật Thuế GTGT (sửa đổi) đã có đề xuất thu hẹp phạm vi đối tượng không chịu thuế tại Điều 5 Luật Thuế GTGT hiện hành nhằm khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất trong nước. Tuy nhiên, đề nghị xây dựng Luật Thuế GTGT (sửa đổi) mới chỉ đề xuất liên quan tới phân bón, tàu cá và máy móc nông nghiệp với giải pháp đưa ra là chuyển các mặt hàng này từ diện không chịu thuế GTGT sang diện chịu thuế suất 5%. Đối với những mặt hàng còn lại thuộc diện không chịu thuế thì chưa có giải pháp dù vẫn đang gặp vấn đề bảo hộ ngược.
Liên quan tới vấn đề này, VCCI kiến nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục rà soát để loại bỏ các mặt hàng thuộc đối tượng không chịu thuế. Theo đó, đối với các loại hàng hóa, dịch vụ mà Việt Nam không nhập khẩu từ nước ngoài (hoàn toàn tự sản xuất, cung ứng và tiêu dùng trong nước) thì tiếp tục duy trì diện không chịu thuế. Còn đối với các loại hàng hóa, dịch vụ mà Việt Nam nhập khẩu từ nước ngoài để tiêu dùng trong nước thì cần loại bỏ khỏi diện không chịu thuế mà chuyển sang các mức thuế suất thuế GTGT phù hợp.
Gia đình anh KBRóp ở thôn Kao Kuil, xã Đinh Lạc, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng thu hàng trăm triệu đồng mỗi năm nhờ trồng cà phê. Ảnh: TRẦN VIỆT |
VCCI đưa ra đề xuất, việc lựa chọn mức thuế suất phù hợp để chuyển các mặt hàng này sang cần căn cứ vào chi phí thuế trung bình chưa được khấu trừ của mặt hàng đó trong giá thành sản phẩm sản xuất trong nước. Cụ thể, mức thuế suất mới nên thấp hơn so với chi phí thuế trung bình chưa được khấu trừ trong giá thành sản phẩm sản xuất trong nước. Ví dụ, đối với mặt hàng có chi phí thuế trung bình chưa được khấu trừ 6% trong giá thành sản phẩm thì nên chuyển sang diện thuế suất 5%; mặt hàng có chi phí thuế trung bình chưa được khấu trừ 4% thì có thể chuyển về mức 3%.
Phương án này làm cho các mặt hàng sản xuất trong nước và mặt hàng nhập khẩu chịu chung một mức thuế suất và xóa bỏ toàn bộ việc bảo hộ ngược. Các mặt hàng trong nước sẽ được khấu trừ thuế đầu vào trung bình bằng hoặc cao hơn một chút so với số thuế đầu ra. Do đó, nghĩa vụ thuế cuối cùng của các doanh nghiệp sản xuất trong nước hầu như không thay đổi. Trong khi đó, hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu sẽ phải đóng thuế ở khâu nhập khẩu, thay vì không chịu thuế như hiện nay. Ngân sách nhà nước có thể hụt thu một chút từ hàng hóa sản xuất trong nước, nhưng lại thu thêm được nhiều hơn từ hàng hóa nhập khẩu.
TS Tô Hoài Nam, Phó chủ tịch Thường trực kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam (VINASME) cho rằng, về mặt ngắn hạn, những mặt hàng mà chúng ta chưa sản xuất được thì khi nhập khẩu có thể không đánh thuế quá cao. Tuy nhiên, về mặt dài hạn, cần khuyến khích doanh nghiệp đối tác mở xưởng sản xuất ở Việt Nam để vừa phục vụ nhu cầu trong nước vừa có thể xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài. Bên cạnh đó, các chính sách thuế khi đưa ra phải hướng tới việc khuyến khích, tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất nội địa.
Nguồn:https://www.qdnd.vn/kinh-te/cac-van-de/xay-dung-chinh-sach-thue-tao-thuan-loi-cho-doanh-nghiep-trong-nuoc-742374
Ý kiến ()