"Xanh hóa" để tăng trưởng bền vững
Dệt may được xác định là ngành phát thải thuộc tốp 5 thế giới do số lượng quần áo, đặc biệt là thời trang nhanh (fast fashion) dùng trong thời gian ngắn và bỏ đi tạo ra lượng rác thải rất lớn, gây nguy hại môi trường.
Sản xuất hàng may mặc xuất khẩu tại Tổng công ty cổ phần Dệt may Nam Ðịnh.
Các nước phát triển đều đặt ngành dệt may vào “tầm ngắm” về giảm phát thải. Do đó, muốn đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, bắt buộc doanh nghiệp phải “xanh hóa” dệt may, từ đó mới có cơ hội tiếp cận đơn hàng lớn từ các thị trường như: EU, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc,…
Với cam kết của Chính phủ tại COP26 và những yêu cầu từ các nhà nhập khẩu, xanh hóa được xác định là yếu tố mang tính chiến lược đối với các doanh nghiệp. Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) đặt mục tiêu đến năm 2023, giảm 15% tiêu thụ năng lượng, 20% tiêu thụ nước; đến 2030, chuyển đổi “xanh hóa” ngành dệt may, đồng thời xây dựng được 30 thương hiệu mang tầm quốc tế.
Xu thế tất yếu
Theo Chủ tịch Vitas Vũ Ðức Giang, xanh hóa và phát triển bền vững là những tiêu chí cạnh tranh mà các thị trường lớn như: Mỹ, EU, Nhật Bản,… yêu cầu ở các nhà cung cấp bên cạnh yếu tố về giá cả, chất lượng sản phẩm và thời gian giao hàng. Xanh hóa trong ngành dệt may không phải câu chuyện định hướng tương lai, thực tế các doanh nghiệp đã bắt tay vào làm trong vài năm trở lại đây. Ðơn cử như những sản phẩm may mặc xuất khẩu vào châu Âu bắt buộc phải được sản xuất từ sợi cotton, sợi polyester pha với sợi tái chế được làm từ các sản phẩm thiên nhiên, phế phẩm hoặc sản phẩm dệt may dư thừa. Nói một cách tổng quát, các nhà nhập khẩu lớn đang tập trung vào các chỉ số phát triển bền vững ESG (môi trường, xã hội và quản trị) và tiêu chuẩn LEED (định hướng thiết kế về năng lượng và môi trường), nhà cung cấp nào có lợi thế này sẽ có sức cạnh tranh và nhiều đơn hàng hơn. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải quyết liệt triển khai lộ trình xanh hóa trong thời gian tới nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa.
Dưới góc độ doanh nghiệp, Tổng Giám đốc Tổng công ty May 10 Thân Ðức Việt khẳng định, xanh hóa trong hoạt động sản xuất không chỉ là yêu cầu đối với doanh nghiệp mà còn của toàn ngành trong việc thực hiện cam kết của Chính phủ Việt Nam tại COP26 là giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Bên cạnh đó, rất nhiều doanh nghiệp hàng đầu thế giới tiên phong cam kết phát triển bền vững với việc sản xuất xanh, tạo ra các sản phẩm xanh,… “Bản thân May 10 đã chuyển dịch theo hướng xanh hóa từ khoảng 5 năm trở lại đây bằng việc đầu tư các thiết bị sử dụng tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm điện; đầu tư năng lượng tái tạo như: điện mặt trời áp mái, chuyển hệ thống dùng lò hơi than sang nồi điện nhằm chống ô nhiễm không khí…”, Tổng Giám đốc May 10 nhấn mạnh.
Ðể thực hiện lộ trình xanh hóa, năm 2015, Công ty Dệt may Thành Công đã thành lập Trung tâm nghiên cứu và phát triển kinh doanh, đồng thời đưa ra ba dòng sản phẩm chính, đó là dòng sản phẩm thân thiện với môi trường được tái chế từ chai nhựa, mía, bắp, quần áo cũ…; dòng sản phẩm tính năng theo mùa và dòng sản phẩm tiện dụng cho cuộc sống. Trong giai đoạn cao điểm dịch Covid-19 bùng phát, nhà nhập khẩu hủy đơn hàng thời trang nhưng bù lại, doanh nghiệp nhận được nhiều đơn hàng về khẩu trang kháng khuẩn, góp phần ổn định doanh thu, lợi nhuận. Sau giai đoạn đại dịch, những sản phẩm xanh tiếp tục giúp đơn vị có thêm cơ hội khi tiếp cận các khách hàng lớn.
Tương tự, trong những năm qua, Tổng công ty Ðức Giang và các đơn vị thành viên cũng đầu tư, tạo ra các sản phẩm được sản xuất trong các nhà máy sử dụng năng lượng mặt trời, nguồn nước sạch và thân thiện với môi trường. Các sản phẩm thời trang của tổng công ty được nghiên cứu, phát triển dựa trên các nguyên liệu tái chế, có nguồn gốc từ tự nhiên như sợi vải vỏ hàu, sợi vải cà-phê, sợi bạc hà,… đã được khách hàng đón nhận, tin dùng. Giám đốc thương hiệu thời trang Hera DG Ðặng Ngọc Lan cho biết, tính trên toàn cầu, mỗi năm ngành thời trang tạo ra khoảng 92 triệu tấn phế liệu, là nguyên nhân hình thành những bãi rác quần áo khổng lồ, gây ô nhiễm môi trường và nguồn nước. Do đó, ngành thời trang cần đi theo hướng đi mới với nhận thức về tầm quan trọng của môi trường và an toàn sức khỏe.
Đáp ứng nhu cầu thị trường
Hiện nay, tỷ trọng sợi tái chế trong sản phẩm may mặc của May 10 đang chiếm khoảng 30-50%. Ðơn vị cũng liên kết với nhà sản xuất sợi, xử lý các sản phẩm dư thừa thành sợi tái chế, phục vụ sản xuất sản phẩm mới. Ngoài ra, môi trường làm việc tại các cơ sở đang đáp ứng các tiêu chuẩn nhà máy xanh, an toàn cho sức khỏe của người lao động theo chứng chỉ LEED của Mỹ hoặc một số tiêu chuẩn của châu Âu.
Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) Cao Hữu Hiếu cho rằng, trước những yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường, nếu doanh nghiệp dệt may không có chiến lược phát triển bền vững, sản xuất xanh sẽ không thể tham gia vào chuỗi cung ứng của các hãng và sẽ không có đơn hàng. Hiện Vinatex đã và đang làm việc với một số địa phương trên cả nước để xin chủ trương đầu tư, quỹ đất xây dựng các khu công nghiệp có đầu tư ngành dệt nhuộm với tiêu chuẩn xanh nhằm khép kín chuỗi cung ứng.
Ngoài ra, đơn vị cũng tập trung phấn đấu giảm 30% lượng nước thải sau nhuộm bằng công nghệ mới, sử dụng lại 30% nước thải sau xử lý cho các công đoạn giặt, rửa, vệ sinh. Ðối với ngành sợi, sẽ sử dụng ít nhất 20% xơ polyester tái chế, 15% bông organic để giảm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, Vinatex cũng sẽ đầu tư điện mặt trời tại các nhà máy, phấn đấu 10%-20% lượng điện sử dụng có nguồn gốc từ năng lượng tái tạo,…
Ðánh giá về quá trình xanh hóa của ngành, Chủ tịch Vitas Vũ Ðức Giang khẳng định, việc các doanh nghiệp tiếp cận năng lượng tái tạo, năng lượng xanh đang giúp giảm chi phí sản xuất, tạo ra chứng chỉ xanh cho hàng hóa, nâng sức cạnh tranh trên trường quốc tế, qua đó thúc đẩy tăng trưởng dệt may một cách bền vững. Bên cạnh nỗ lực của doanh nghiệp, rất cần sự đồng hành của Chính phủ thông qua việc hỗ trợ các cơ chế, chính sách về tài chính, đất đai…, giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn với mức ưu đãi để đẩy mạnh đầu tư, mua sắm các trang thiết bị phục vụ lộ trình xanh hóa dệt may.
Ý kiến ()