Viện Bỏng Quốc gia ứng dụng thành công nhiều kỹ thuật điều trị mới
Viện Bỏng Quốc gia mang tên danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã hai lần vinh dự được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVTND. Với mô hình bệnh viện quân - dân y kết hợp, ngay từ khi mới thành lập (25-4-1991), Viện đã trở thành địa chỉ tin cậy cứu chữa, điều trị các bệnh nhân bỏng trên mọi miền đất nước.Viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác có chức năng, nhiệm vụ cấp cứu, điều trị bệnh nhân bỏng và di chứng sau bỏng trong cả nước; nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ chuyên ngành bỏng và y học thảm họa; đào tạo cán bộ chuyên môn về chuyên ngành bỏng; xây dựng, phát triển và chỉ đạo chuyên môn mạng lưới khám, chữa bỏng trong toàn quốc. Trong những năm qua, Đảng ủy, Ban Giám đốc Viện đã coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học trẻ có năng lực, trình độ và nhiệt tình trách nhiệm (95% số cán bộ của Viện có trình độ sau đại học); cử hàng chục đoàn cán bộ đi học tập tại các nước nắm bắt kỹ thuật tiên...
Viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác có chức năng, nhiệm vụ cấp cứu, điều trị bệnh nhân bỏng và di chứng sau bỏng trong cả nước; nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ chuyên ngành bỏng và y học thảm họa; đào tạo cán bộ chuyên môn về chuyên ngành bỏng; xây dựng, phát triển và chỉ đạo chuyên môn mạng lưới khám, chữa bỏng trong toàn quốc. Trong những năm qua, Đảng ủy, Ban Giám đốc Viện đã coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học trẻ có năng lực, trình độ và nhiệt tình trách nhiệm (95% số cán bộ của Viện có trình độ sau đại học); cử hàng chục đoàn cán bộ đi học tập tại các nước nắm bắt kỹ thuật tiên tiến trên thế giới để vận dụng điều trị cho bệnh nhân bỏng. Kế thừa, phát huy các bài thuốc y học dân tộc, cổ truyền trong điều trị bỏng và liền vết thương; nhiều đề tài nghiên cứu khoa học về y học dân tộc đạt kết quả tốt, phục vụ điều trị như: thuốc mỡ Maduxin, Damphomat, SH91, Chitosan, Eupoulin… Đến nay, 70% số vết thương, vết bỏng được sử dụng thuốc y học dân tộc do Viện Bỏng nghiên cứu, Học viện Quân y sản xuất, có tác dụng tương đương với thuốc nhập ngoại nhưng giá thành thấp hơn nhiều lần.
Bên cạnh đó, Viện còn tập trung nghiên cứu, phát triển các kỹ thuật mới hiện đại để nâng cao chất lượng và khả năng điều trị. Từ năm 2000 đến nay, Viện đã phát triển hàng loạt kỹ thuật điều trị mới tiên tiến, nâng cao khả năng cứu chữa bệnh nhân, giảm chi phí và ngày nằm điều trị, tạo điều kiện cho phát triển khoa học, công nghệ chuyên ngành. Coi trọng công tác nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ; Viện đã có ba đề tài cấp nhà nước, 30 đề tài cấp bộ, hơn 80 đề tài cấp Viện được tiến hành và nghiệm thu xuất sắc. 100% số đề tài được ứng dụng vào thực tế, mang lại ý nghĩa thiết thực trong điều trị và chăm sóc bệnh nhân. Đồng thời, cùng với các bộ môn của Học viện Quân y, Viện tham gia đào tạo hàng nghìn bác sĩ đa khoa dài hạn, hàng trăm cử nhân điều dưỡng, 500 bác sĩ cơ sở. Riêng chuyên ngành bỏng, đã đào tạo 205 bác sĩ chuyên khoa, 52 thạc sĩ, 22 tiến sĩ; bồi dưỡng cho hàng trăm điều dưỡng viên của bệnh viện tuyến trước, trong đó có cả y tá của Vương quốc Anh và Ô-xtrây-li-a.
Được sự quan tâm đầu tư của Bộ Quốc phòng, Học viện Quân y, nhất là Bộ Y tế, đến nay, cơ sở hạ tầng, máy móc trang thiết bị kỹ thuật của Viện ngày càng khang trang, hiện đại. Chính vì vậy, những năm gần đây, bệnh nhân bị bỏng nặng trong toàn quân và các tỉnh, thành phố trong cả nước chuyển về điều trị tại Viện số lượng không ngừng tăng lên; trong đó, có cả bệnh nhân là công dân các nước Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nga… Từ kết quả nghiên cứu, ứng dụng thành công thành quả khoa học-công nghệ, kết hợp hoàn thiện các bài thuốc y học dân tộc, nên chất lượng, hiệu quả điều trị của Viện đạt được bước tiến vượt bậc. Năm năm trở lại đây, Viện đã thu dung, cứu chữa, điều trị hơn 35.500 bệnh nhân, trong đó có 5.700 trẻ em. Nhiều bệnh nhân bị các biến chứng nặng như: nhiễm khuẩn máu, bỏng đường hô hấp, suy thận cấp, sốc nhiễm khuẩn nhiễm độc, chảy máu tiêu hóa… nếu như trước đây hầu hết bị tử vong, thì nay phần lớn đã được cứu sống. Chi phí điều trị bệnh nhân bỏng ngày càng giảm, số ngày nằm điều trị trung bình chỉ còn 16 ngày (trước đây từ 20 đến 23 ngày); thời gian điều trị bệnh nhân bỏng sâu, diện rộng trước đây mất từ ba đến sáu tháng, hiện nay giảm xuống nhiều nhất cũng chỉ hai tháng. Hiện nay, Viện quan hệ hợp tác các viện lớn của quân, dân trong cả nước và hợp tác hầu hết các trung tâm bỏng lớn trên thế giới; là thành viên của Hội Bỏng thế giới, Hội Bỏng châu Á – Thái Bình Dương và Hội Bỏng châu Âu.
Với tính kỷ luật 'quân lệnh như sơn', y đức trong sáng của người 'chiến sĩ áo trắng', tập thể cán bộ, công nhân viên Viện Bỏng Quốc gia sẽ tiếp tục phát huy truyền thống đơn vị Anh hùng, đoàn kết, vượt khó vươn lên, xây dựng Viện ngày càng chính quy, hiện đại, ngang tầm với khu vực, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới, xứng đáng với niềm tin cậy của bộ đội và nhân dân cả nước.
Theo Nhandan
Ý kiến ()