Vì một ASEAN “gắn kết về chính trị, liên kết về kinh tế và có trách nhiệm xã hội”
Trải qua gần 5 thập kỷ phát triển, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) đang hướng tới dấu mốc mới, có ý nghĩa lịch sử trọng đại. Đó là việc chính thức hình thành Cộng đồng ASEAN vào ngày 31/12/2015. Cộng đồng ASEAN sẽ mang đến một sức sống mới, một hơi thở sinh động cho toàn bộ khu vực vì lợi ích của hơn 600 triệu dân ASEAN, và khu vực.
Vì một ASEAN “gắn kết về chính trị, liên kết về kinh tế và có trách nhiệm xã hội” |
Theo đó, ASEAN sẽ là một Cộng đồng “gắn kết về chính trị, liên kết về kinh tế và chia sẻ trách nhiệm xã hội, dựa trên ba trụ cột vững chắc là cộng đồng Chính trị – an ninh, cộng đồng kinh tế, và cộng đồng Văn hóa – xã hội, đồng thời tiếp tục phát huy mạnh mẽ vai trò trung tâm và đóng góp tích cực của mình cho hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển ở khu vực.
Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 21 Phnôm Pênh, Căm-pu-chia, ngày 18/11/2012), các nhà lãnh đạo ASEAN đã quyết định thời điểm hình thành Cộng đồng ASEAN vào ngày 31/12/2015. Trong bối cảnh chúng ta đang cùng các nước ASEAN tiến gần tới mốc ra đời Cộng đồng, câu hỏi thường được nêu ra là Cộng đồng ASEAN là như thế nào? Có những nội dung gì?
Ý tưởng về Cộng đồng ASEAN lần đầu tiên được đề cập vào năm 1997 – nhân dịp Kỷ niệm 30 năm ngày thành lập ASEAN, Lãnh đạo các nước ASEAN đã thông qua văn kiện quan trọng Tầm nhìn ASEAN 2020, với mục tiêu tống quát là đưa Hiệp hội trở thành “một nhóm hài hoà các dân tộc Đông Nam Á, gắn bó trong một cộng đồng các xã hội đùm bọc lẫn nhau”.
Tháng 10/2003, các Nhà Lãnh đạo ASEAN đã ký Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II (hay còn gọi là Tuyên bố Ba-li II), chính thức quyết định thiết lập một Cộng đồng ASEAN vào năm 2020, bao gồm ba trụ cột: Cộng đồng An ninh (năm 2007 bổ sung thêm, gọi đầy đủ là Cộng đồng Chính trị – an ninh), Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hoá – xã hội, vì mục đích đảm bảo hoà bình bền vững, ổn định và thịnh vượng chung trong khu vực.
Tháng 1/2007, để kịp thích ứng với những chuyển biến nhanh chóng và phức tạp của tình hình quốc tế và khu vực, nhất là xu thế toàn cầu hoá và liên kết kinh tế đang được đẩy mạnh trên thế giới, trên cơ sở những thành tựu của ASEAN trong 40 năm qua nhất là về kinh tế, tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 12 (Cebu, Phi-líp-pin, tháng 1/2007), Lãnh đạo các nước ASEAN đã đẩy nhanh tiến trình liên kết nội khối đưa trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN, nhất trí mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 (thay vì vào năm 2020 như thỏa thuận trước đây).
Hội nghị Cấp cao ASEAN-14 (tháng 2/2009) đã thông qua Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN kèm theo 3 Kế hoạch tổng thể xây dựng 3 trụ cột Cộng đồng ASEAN và Kế hoạch công tác về IAI giai đoạn 2, xác định các mục tiêu cần hoàn thành và bước triển khai cụ thể để thực hiện mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN trong giai đoạn từ 2009-2015.
Tiếp sau đó, tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 17 (Hà Nội, tháng 10/2010), các nước ASEAN đã thông qua bản Kế hoạch tổng thể về: Kết nối ASEAN (MPAC), nhằm thúc đẩy kết nối cả về vật chất (cơ sở hạ tầng) và kết nối thể chế, kết nối con người, hỗ trợ thiết thực cho mục tiêu xây dựng cộng đồng của ASEAN
Mục tiêu tổng quát của Cộng đồng ASEAN là xây dựng Hiệp hội thành một tổ chức hợp tác liên Chính phủ liên kết sâu rộng hơn và ràng buộc hơn trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN, nhưng không phải là một tổ chức siêu quốc gia và không khép kín mà vẫn mở rộng hợp tác với bên ngoài. Cộng đồng ASEAN sẽ được hình thành dựa trên 3 trụ cột là Cộng đồng Chính trị-an minh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hóa-xã hội. Quan hệ đối ngoại của ASEAN cũng như mục tiêu thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN (nhất là IAI) được lồng ghép vào nội dung của từng trụ cột Cộng đồng ASEAN.
Mục đích của cộng đồng Chính trị – an ninh ASEAN (APSC) nhằm duy trì và tăng cường an ninh, hòa bình và ổn định, tăng khả năng của ASEAN tự bảo đảm an ninh khu vực. Hợp tác trong khuân khổ APSC bao gồm hợp tác kiến tạo một nền an ninh toàn diện ở khu vực, ứng phó với các thách thức phi truyền thống, như tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố, ứng phó thiên tai khẩn cấp và hợp tác về an ninh hàng hải… ASEAN khẳng định không hướng tới hình thành liên minh quân sự ở khu vực hoặc một khối phòng thủ chung; các nước thành viên có quyền tự do theo đuổi chính sách đối ngoại riêng cũng như bố trí phòng thủ riêng của mình.
Sứ mệnh của Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) nhằm tạo dựng: Một thị trường chung và cơ sở sản xuất thống nhất; Một khu vực có sức cạnh tranh; Phát triển đông đều; Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Để đưa ASEAN trở thành một thị trường chung và cơ sở sản xuất thống nhất, AEC tập trung vào các biện pháp tạo thuận lợi hóa và tự do lưu chuyển thương mại, đầu tư, dịch vụ, lao động tay nghề cao, và sự di chuyển tự do hơn của các dòng vốn. AEC, tuy vậy, không có kế hoạch xây dựng một liên minh tiền tệ sử dụng đồng tiền chung như Liên minh châu Âu (EU).
Cộng đồng, Văn hóa – Xã hội ASEAN (ASCC) nhằm gắn bó chặt chẽ các nước Đông Nam Á trong một cộng đồng gắn kết, phát triển đồng đều, hòa hợp, với các “xã hội quan tâm và chia sẻ”. Cộng đồng văn hóa xã hội có 4 thành tố: Xây dựng cộng đồng các xã hội đùm bọc lẫn nhau; Điều tiết những ảnh hưởng về mặt xã hội của các liên kết kinh tế; Đảm bảo tính bền vững của môi trường; Tăng cường nền tảng gắn kết xã hội của khu vực.
Thời điểm hình thành Cộng đồng ASEAN sau ngày 31/12/2015 được xác định chỉ là mốc khởi đầu và tiến trìn xây dựng, củng cố Cộng đồng ASEAN sẽ tiếp tục được đẩy mạnh trong giai đoạn tiếp theo. Dự kiến trong năm 2015, các nội dung chính trong Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN sẽ được cơ bản hoàn tất và ASEAN đã bắt đầu khởi động trao đổi về tầm nhìn chiến lược và con đường phát triển của Cộng đồng ASEAN trong những giai đoạn tiếp theo sau năm 2015.
Thời điểm Việt Nam tham gia ASEAN ngày 28/7/1995 có thể xem như một bước ngoặt trong tiến trình mở cửa và hội nhập khu vực, quốc tế của đất nước. Cánh cửa đầu tiên đã được mở ra giúp Việt Nam từng bước tháo gỡ thế bao vây, cấm vận, đưa đất nước hoà nhập vào đời sống khu vực. 18 năm tham gia ASEAN đã chứng kiến quá trình trưởng thành của Việt Nam trên sân chơi hội nhập từ giai đoạn học hỏi, làm quen, đến việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của thành viên, tiến tới tham gia tích cực, chủ động và có trách nhiệm.
Ba năm sau khi chính thức gia nhập, Việt Nam đã đảm nhận nghĩa vụ đầu tiên của một thành viên với việc tổ chức Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 6 (1998), chủ trì xây dựng và thông qua Chương trình Hành động Hà Nội (HPA) triển khai Tầm nhìn ASEAN 2020 cũng như đề ra các biện pháp ứng phó với các vấn đề nảy sinh sau khủng hoảng tài chính khu vực, để lại dấu ấn tốt đẹp đầu tiên của Việt Nam trong ASEAN. Ba năm tiếp theo đó, theo luân phiên, Việt Nam tiếp tục đảm nhiệm vai trò Chủ tịch Ủy ban thường trực ASEAN (2000 – 2001) khóa 34, chủ trì thành công chuỗi các Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN và giữa ASEAN với các Đối tác tại Hà Nội tháng 7/2001, đề xuất và thông qua, Tuyên bố Hà Nội về Thu hẹp khoảng cách phát triển, cụ thể hoá Sáng kiến Liên kết ASEAN (IAI) đẩy mạnh phát triển đồng đều, bền vững trong Hiệp hội.
Vai trò của Việt Nam tiếp tục được thể hiện rõ nét qua những đóng góp tích cực cho quá trình xây dựng các văn kiện định hướng lớn đưa ASEAN chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh liên kết và xây dựng cộng đồng như: Tuyên bố Hòa họp Ba-li II năm 2003, Chương trình Hành động Viên-chăn (VAP) năm 2004, Hiến chương ASEAN năm 2007, Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN 2009-2015, Kế hoạch Công tác Sáng kiến Liên kết ASEAN v.v.
Một trong những kết quả nổi bật là Việt Nam đã thực hiện xuất sắc vai trò Chủ tịch ASEAN trong năm 2010 – năm bản lề quan trọng đối với ASEAN trong kế hoạch 5 năm thực hiện Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN vào 2015 trong giai đoạn chuyển tiếp đưa Hiến chương ASEAN vào cuộc sống với tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động mới. Việt Nam đã thúc đẩy hợp tác ASEAN với chủ đề “Hướng tới cộng đồng ASEAN: Từ tầm nhìn đến hành động”; chủ trì tổ chức và điều hành một loạt các hoạt động quan trọng của ASEAN và thông qua nhiều Văn kiện, tuyên bố quan trọng, có tầm chiến lược trong định hướng phát triển của ASEAN. Việt Nam đã chủ động nêu các sáng kiến quan trọng trong việc lập một số cơ chế mới như Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN 8 (ADMM ), Hội nghị những người đứng đầu các cơ quan an ninh ASEAN (MACOSA), và việc Hội nghị Thượng đỉnh Đông á (EAS) đã được mở rộng với sự tham gia của Nga và Mỹ.
Trên nền tảng những kết quả tốt đẹp của năm 2010, Việt Nam tiếp tục phát huy hiệu quả vai trò chủ động và tích cực trong triển khai các trọng tâm, ưu tiên hướng mạnh về mục tiêu hình thành Cộng đồng như nỗ lực thực hiện hiệu quả và đúng hạn Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN, đẩy mạnh thu hẹp khoảng cách phát triển, triển khai kết nối ASEAN, đóng góp quan trọng và việc xây dựng và triển khai các văn kiện và quyết sách chiến lược của ASEAN trong giai đoạn mới như Tuyên bố về Cộng đồng ASEAN trong Cộng đồng các quốc gia toàn cầu (Tuyên bố Hoà hợp Bali II) năm 2011, Tuyên bố về các nguyên tắc quan hệ cùng có lợi của Cấp cao năm 2012, khởi động đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện khu vực (RCEP) v.v. Trong giai đoạn điều phối quan hệ ASEAN – Trung Quốc từ 2009 – 2012, Việt Nam đã góp phần quan trọng thúc đẩy quan hệ hai bên đi vào chiều sâu và thực chất hơn, trong đó có việc thông qua chương trình hành động thực hiện Tuyên bố về quan hệ đối tác chiến lược ASEAN – Trung Quốc 2011 – 2015, các Nguyên tắc hướng dẫn thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) xây dựng các thành tố cơ bản của Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
Hội nhập và tham gia và các hoạt động hợp tác của ASEAN cũng giúp Việt Nam tranh thủ được nhũng lợi ích thiết thực về kinh tế-thương mại và văn hóa – xã hội, hỗ trợ đắc lực cho phát triền kinh tế – xã hội của Việt Nam. Tham gia liên kết kinh tế nội khối ASEAN cũng như các thỏa thuận Thương mại tự do giữa ASEAN với các Đối tác một mặt giúp Việt Nam thu hút đầu tư và kinh doanh từ bên ngoài, mặt khác, cũng là cầu nối đe Việt Nam tiếp cận các thị trường tiềm năng trong và ngoài khu vực- Điển hình nhất là thông qua tham gia AFTA, quan hệ kinh tế thương mại của ta tiếp tục được nhân lên trong và ngoài ASEAN với các thỏa thuận FTA của ASEAN với các đối tác quan trọng như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc, New Zealand (sắp tới là Hồng Hông, EU, Mỹ) … và các khuôn khổ thương mại đa phương sâu rộng hơn là RCEP, TPP. Hơn nữa, Việt Nam cũng tiếp nhận thêm nguồn lực, thông tin, khoa học – công nghệ, kinh nghiệm quản lý hiện đại, từng bước nâng cao năng lực thể chế và hội nhập quốc tế, tăng cường khả năng xử lý các vấn đề xuyên quốc gia… Đồng thời, ASEAN góp phần giúp ta xác định các mục tiêu và định hướng chiến lược phát triển đất nước cả về chính trị, an ninh, kinh tế, xã hội thông qua việc theo đuổi các mục tiêu chung của ASEAN và tiến hành các bước cải cách, điều chỉnh trong nước cho phù hợp với các mục tiêu đó.
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam tiếp tục dành ưu tiên cao và cam kết mạnh mẽ cùng các nước thành viên tập trung đưa Cộng đồng ASEAN đi vào hiện thực, đồng thời chuẩn bị cho những bước phát triển mới tiếp theo của cộng đồng sau 2015.
Trong những khó khăn hạn chế chung của ASEAN, có thể nói Việt Nam là một trong những nước thành viên phải đối phó với nhiều thách thức lớn, đòi hỏi phải có nhận thức, quyết sách và hành động kịp thời để bảo đảm lợi ích của ta trong tiến trình hội nhập và xây dựng Cộng đồng ASEAN.
Thách thức hàng đầu xuất phát từ ngay từ trong nội tại chúng ta, do xuất phát điểm thấp, năng lực cạnh tranh chậm được cải thiện, dù đã trải qua cả một tiến trình giảm thuế từ năm 1996 khi ta tham gia CEPT/AFTA, đến ân hạn ASEAN dành cho trong khuôn khổ thực hiện Hiệp định thương mại hàng hoá ATIGA hiện nay. Những biện pháp mạnh mẽ đổi mới năng lực cạnh tranh, bao gồm nâng cao năng lực quản trị, cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, tích cực tìm kiếm đối tác liên doanh liên kết phải được đẩy mạnh trong các doanh nghiệp của ta trong thời gian tới.
Thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN là một nhiệm vụ quan trọng khác đặt ra cho chúng ta và các nước thành viên ASEAN trong nỗ lực tiến tới Cộng đồng. Các bộ/ngành của ta tham gia hợp tác ASEAN cũng cần chú trọng nâng cao hơn nữa sự phối hợp liên ngành, cũng như chuẩn bị sẵn sàng hơn cho việc đi tiếp những tầng nấc sâu rộng hơn của tiến trình liên kết trong Cộng đồng ASEAN. Công tác nghiên cứu, sẵn sàng cho các mức liên kết cao hơn trong ASEAN cần được tiến hành khẩn trương.
Sự vận động thích ứng với các chuẩn mực chung ASEAN đang đề cao như về tuân thủ luật định, minh bạch, thị trường cạnh tranh… cũng cần được củng cố hơn nữa.
Chúng ta cũng phải hết sức nỗ lực cùng các thành viên ASEAN bảo vệ hoà bình, an ninh, ổn định ở khu vực, giữ gìn môi trường thuận lợi cho ASEAN trong tiến trình xây dựng Cộng đồng. Đây là một thách thức to lớn và là một nhiệm vụ không dễ dàng. Để thực hiện điều đó, việc duy trì đoàn kết thống nhất và phát huy vai trò trung tâm của ASEAN ở khu vực trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Nhìn tổng thể, đây là những thách thức trước mắt cũng như về lâu dài đối với chúng ta. Chúng ta cần tranh thủ trên hết những nhân tố thuận lợi khách quan của tiến trình phát triển Cộng đồng ASEAN đề hóa giải các thách thức, nhanh chóng gia tăng nội lực quốc gia, thúc đẩy toàn diện các mặt hợp tác về chính trị, an ninh quốc phòng, kinh tế, văn hóa – xã hội… phục vụ xây dựng nền móng vững chắc cho an ninh quốc gia và phát triển bền vững.
Những nền tảng tốt đẹp của 18 năm vừa qua là điều đáng tự hào, song cũng là thách thức cho Việt Nam trong việc xác đmh một hướng đi mới, với tâm thế mới để cùng ASEAN bước vào cộng đồng sau năm 2015, cũng trùng với mốc đánh dấu tròn 20 năm Việt Nam gắn bó cùng ASEAN.
Là bộ phận gắn bó khăng khít, một thành viên có trách nhiệm trong ASEAN suốt 18 năm qua, tương lai phát triển của Việt Nam sẽ tiếp tục gắn với ASEAN. Một cộng đồng ASEAN vững mạnh, liên kết chặt chẽ chính là ưu tiên và lợi ích mà Việt Nam theo đuổi. Trên bước đường đi tới của ASEAN, Việt Nam sẽ chủ động, tích cực cùng các nước thành viên ASEAN, đẩy mạnh đoàn kết, tăng cường hợp tác để hiện thực hoá thành công tầm nhìn về một cộng đồng ASEAN “gắn kết về chính trị liên kết về kinh tế và có trách nhiệm xã hội”, nơi người dân các quốc gia thành viên được “sống trong hoà bình, an ninh và ồn định bền vững, tăng trưởng kinh tế lâu dài, thịnh vượng chung và tiến bộ xã hội”.
Theo Dangcongsan.vn
Ý kiến ()