VEPR: Việt Nam có thể đạt mức tăng trưởng kinh tế 6,3% năm 2021
Chuyên gia của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách cho rằng việc thành lập bộ máy lãnh đạo Đảng và Nhà nước mới hứa hẹn triển vọng kinh tế năng động trở lại trong năm 2021 và các năm sau đó.
Việt Nam cần từng bước xây dựng đệm tài khóa để phòng chống những cú sốc kiểu COVID–19 hoặc những diễn biến bất ngờ của chính bệnh dịch này, trong những năm tới. (Ảnh minh họa/TTXVN)
“Với việc dịch COVID-19 trong nước tiếp tục được khống chế ổn định và kinh tế thế giới khởi sắc khi các biện pháp phong tỏa dần được gỡ bỏ, kinh tế Việt Nam có thể đạt mức tăng trưởng trong khoảng 6%-6,3% trong năm 2021.”
Thông tin trên được tiến sỹ Phạm Thế Anh, Kinh tế trưởng, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) đưa ra tại buổi tọa đàm Công bố Báo cáo Kinh tế Vĩ mô quý 1, ngày 20/4.
Theo ông Thế Anh, việc thành lập bộ máy lãnh đạo Đảng và Nhà nước mới hứa hẹn triển vọng kinh tế năng động trở lại trong năm 2021 và các năm sau đó…
“Chỉ mặt” thách thức
Báo cáo của VEPR đề cập, nền kinh tế toàn cầu đã có dấu hiệu phục hồi với niềm tin đến từ vaccine COVID-19 nhưng vẫn hàm chứa nhiều bất ổn, thiếu sự đồng đều giữa các quốc gia và lĩnh vực kinh tế.
Trong nước, tăng trưởng kinh tế trong quý 1 đạt 4,48% với các yếu tố hỗ trợ, như Chính phủ kiểm soát tốt dịch bệnh từ giai đoạn sớm giúp duy trì hoạt động kinh tế cùng những kỳ vọng về kinh tế do việc hoàn tất ký kết Hiệp định thương mại tự do và bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và EU (EVFTA và IPA) đem lại. Bên cạnh đó, tiến độ giải ngân và thi công các dự án đầu tư công trọng điểm đang được đẩy nhanh, cộng thêm làn sóng dịch chuyển đầu tư và thương mại giúp môi trường vĩ mô ổn định, lạm phát kiểm soát được ở mức chấp nhận được… từ đó tạo môi trường cho việc thực thi các chính sách hỗ trợ tăng trưởng.
Song, ông Thế Anh cảnh báo Việt Nam đang gặp nhiều thách thức trong một môi trường kinh tế thế giới bất trắc. Sự tái bùng phát của COVID-19 tại nhiều nước đi kèm với các biện pháp phong tỏa tiếp tục kéo dài thời gian đứt gãy của chuỗi cung ứng trong năm 2021 khiến sức chịu đựng của doanh nghiệp ngày càng yếu hơn. Thêm vào đó, xung đột địa chính trị giữa các nước lớn có thể khiến một nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam đối diện những rủi ro bất ngờ.
Về nội tại nền kinh tế, ông Thế Anh cho rằng Việt Nam còn phải thận trọng với các yếu tố rủi ro như mất cân đối tài khóa lớn, tốc độ và mức độ đầu tư phát triển, đặc biệt là hạ tầng còn chậm, hiệu quả quản lý thấp.
Ngoài ra, sức khỏe hệ thống ngân hàng-tài chính tuy được củng cố nhưng còn dễ tổn thương cộng thêm sự phụ thuộc nặng nề của tăng trưởng vào khu vực FDI và sự thiếu tự chủ về công nghệ cũng như nguyên liệu trong khu vực sản xuất kinh doanh.
“Ngoài ra, chất lượng lao động còn khá thấp và tình trạng này cải thiện rất chậm; hiệu quả đầu tư công thấp cùng tình tình trạng nhũng nhiễu của bộ máy công quyền khá nặng nề. Thời gian qua, tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cũng bị ngưng trệ và môi trường-thể chế kinh doanh dù từng bước được cải thiện nhưng chưa giải phóng được sức mạnh của doanh nghiệp,” ông Tuấn Anh thẳng thắn đề cập.
Ưu tiên các chính sách an sinh xã hội
Đề xuất giải pháp, nhóm thực hiện báo cáo của VEPR cho rằng trong thời gian tới các chính sách an sinh xã hội vẫn cần được ưu tiên hàng đầu và triển khai nhanh chóng, đúng đối tượng, trước khi người dân rơi vào những bi kịch không đáng có.
Đặc biệt, báo cáo nhấn mạnh việc thực thi chính sách cần quan tâm hơn đến lao động trong khu vực phi chính thức bởi nhóm này chiếm một tỷ trọng lớn, dễ tổn thương, chịu tác động nặng nề nhất và đang khó tiếp cận các chính sách hỗ trợ.
Về các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, báo cáo khuyến nghị cần tiếp tục được thực hiện theo hướng khẩn trương, tập trung, đúng đối tượng và thực chất hơn, theo sát với nhu cầu của doanh nghiệp.
“Việc khoanh, ngưng, miễn giảm chi phí tài chính cho doanh nghiệp, như lãi vay-tiền thuê đất cần tiếp tục được triển khai đồng thời cần cân nhắc cắt giảm kinh phí công đoàn để hỗ trợ doanh nghiệp,” ông Thế Anh nói.
Cụ thể, ông Thế Anh cho rằng với nhóm doanh nghiệp không bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh hoặc có hướng chuyển đổi hiệu quả, khuyến khích tín dụng, tạo điều kiện về môi trường thể chế và chính sách ngành. Trong trường hợp, các ý tưởng chính sách nhằm hỗ trợ đặc biệt cho những doanh nghiệp cụ thể cần đi theo hướng kích cầu, hỗ trợ người tiêu dùng thanh toán chi phí mua sản phẩm/dịch vụ của hãng, thay vì tài trợ trực tiếp cho hãng.
“Chúng tôi cho rằng việc giãn, giảm thuế, nếu có, chỉ nên được áp dụng với thuế giá trị gia tăng thay vì thuế thu nhập doanh nghiệp. Bởi lẽ việc giảm thuế thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ hỗ trợ được số ít doanh nghiệp không bị ảnh hưởng hoặc đang hưởng lợi từ các tác động của dịch bệnh mà không giúp được đa số các doanh nghiệp đang gặp khó khăn. Hơn thế, việc giảm thuế thuế thu nhập doanh nghiệp còn có nguy cơ tạo ra bất bình đẳng sâu sắc hơn trong môi trường kinh doanh, ảnh hưởng không tốt đến việc phục hồi kinh tế sau đại dịch,” ông Thế Anh nhấn mạnh
Về vấn đề hội nhập, theo báo cáo: “Trong năm 2021, những thị trường lớn của Việt Nam như Mỹ và Trung Quốc dự báo sẽ có sự phục hồi đáng kể, hứa hẹn nhiều lợi thế cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam.”
Tính hai mặt của nới lỏng tiền tệ
Báo cáo cũng cho rằng chính sách tiền tệ, cụ thể là công cụ lãi suất sẽ giảm hiệu quả đáng kể trong năm 2021. Đặc biệt, các cấp quản lý cần lưu ý tình trạng bong bóng tài sản đang hình thành trên thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản.
Thời gian qua, các thị trường tài sản đã có sự tăng trưởng đáng kể với lý do chủ yếu vì đây là nơi trú ẩn cho khoản tiền nhàn rỗi của nhà đầu tư và hộ gia đình.
“Điều này có thể hiểu được trong giai đoạn khủng hoảng. Tuy nhiên, việc lãi suất huy động tiền gửi liên tục hạ do cầu tín dụng giảm đang đẩy dòng tiền tiết kiệm ra khỏi ngân hàng ngày càng nhanh hơn,” ông Thế Anh nói.
Mặt khác, ông Thế Anh phân tích khi mức tăng giá trên các thị trường tài sản đủ lớn để tạo ra hiệu ứng của cải (wealth effect) thì mức tiêu dùng sẽ tăng đối với các mặt hàng không phải thiết yếu. Điều này dẫn tới sự lan tỏa của sự tăng giá từ thị trường tài sản sang thị trường tiêu dùng, dù chậm chạp, nhưng có thể cảm nhận được.
Tình trạng bong bóng tài sản đang hình thành trên thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. (Ảnh minh họa/TTXVN)
Đây cũng là một biểu hiện của hiện tượng tăng giá khi chính sách nới lỏng tiền tệ được theo đuổi trong thời gian đủ dài. Nhưng, ông Thế Anh cũng nhìn nhận thời điểm này có nhiều khó khăn trong chính sách tiền tệ vì việc thắt chặt trở lại trong bối cảnh nền sản xuất vẫn chưa có cải thiện ở cấp độ căn bản sẽ dẫn tới khó khăn hơn cho khu vực doanh nghiệp.
“Ngoài ra, mặc dù có chậm trễ song Việt Nam cũng nên từng bước xây dựng đệm tài khóa để phòng chống những cú sốc kiểu COVID–19 hoặc những diễn biến bất ngờ của chính bệnh dịch này trong những năm tới,” ông Thế Anh khuyến nghị./.
Ý kiến ()