UBTVQH thảo luận chương trình phát triển KT-XH dân tộc thiểu số, miền núi
Chiều 15/5, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thảo luận, cho ý kiến về Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KT-XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, giai đoạn 2021-2030.
Thừa uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến trình bày Tờ trình của Chính phủ về Đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KT-XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, giai đoạn 2021-2030.
Khai thác tiềm năng, lợi thế so sánh của các địa phương
Theo đó, phạm vi thực hiện của Chương trình là các xã, thôn có tỉ lệ hộ DTTS từ 15% trở lên. Phân định thành 3 khu vực theo trình độ phát triển: Địa bàn đặc biệt khó khăn (xã khu vực III, thôn đặc biệt khó khăn) là các xã, thôn có tỉ lệ hộ nghèo cao; KT-XH chậm phát triển; chất lượng nguồn nhân lực thấp; hạ tầng cơ sở yếu kém, nhất là về giao thông; điều kiện khám chữa bệnh, học tập của người dân còn nhiều khó khan. Địa bàn còn khó khăn (xã khu vực II) là các xã còn thiếu hụt một hoặc một số điều kiện về cơ sở hạ tầng và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Địa bàn bước đầu phát triển (xã khu vực I) là các xã đã đạt chuẩn nông thôn mới; các xã có tỉ lệ hộ nghèo dưới 10%.
Đối tượng thực hiện của Chương trình là thôn, bản, buôn, làng, ấp… (sau đây gọi chung là thôn, bản); xã vùng đồng bào DTTS&MN; các thành phần kinh tế trong vùng đồng bào DTTS&MN (hộ gia đình, cá nhân người DTTS; hộ gia đình, cá nhân người dân tộc Kinh thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo sinh sống ở các xã, thôn đặc biệt khó khăn; doanh nghiệp, hợp tác xã, các tổ chức kinh tế, xã hội hoạt động ở địa bàn vùng ĐBKK); các cơ quan hành chính các cấp tổ chức thực hiện Chương trình.
Mục tiêu của chương trình được xác định rõ là “góp phần quan trọng, có tính quyết định để đạt được mục tiêu về phát triển KT-XH vùng DTTS và MN theo Nghị quyết số 88/2019/QH14 của Quốc hội”.
Theo Bộ trưởng Đỗ Văn Chiến, thực hiện đề án này nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế của các địa phương trong vùng, đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội; giảm nghèo nhanh, bền vững, thu hẹp dần khoảng cách về mức sống, thu nhập so với bình quân chung của cả nước; giảm dần số xã, thôn đặc biệt khó khăn; quy hoạch, sắp xếp ổn định dân cư, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH đồng bộ, liên vùng, kết nối với các vùng phát triển; phát triển toàn diện giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa; cải thiện rõ rệt đời sống của nhân dân; nâng cao số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động là người DTTS; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các DTTS đi đôi với xóa bỏ phong tục tập quán lạc hậu; thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo an ninh biên giới quốc gia; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, nâng cao niềm tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng và Nhà nước.
Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng kết luận phiên họp. |
Làm thay đổi căn bản đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
Chương trình này xác định mục tiêu phấn đấu đạt các mục tiêu chủ yếu đến năm 2025 là tạo sinh kế, giải quyết những vấn đề bức thiết của nhóm dân tộc rất ít người và dân tộc còn nhiều khó khăn đối với hơn 16.100 hộ, sinh sống ở các tỉnh trong cả nước; hỗ trợ tạo mô hình sinh kế ở 382 xã biên giới đất liền; góp phần tăng thu nhập bình quân người dân tộc thiểu số trên 2 lần so với 2020; góp phần giảm tỉ lệ hộ nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi hàng năm trên 3%.
Đặc biệt, 100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã; nhựa hóa, bê tông hóa hơn 2.600 km đường nông thôn phục vụ sản xuất, đời sống của nhân dân; cải thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội ở 1.400 xã đặc biệt khó khăn (khu vực III) và 8.000 thôn đặc biệt khó khăn ở các xã khu vực II vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; xây dựng 800 công trình nước sinh hoạt tập trung, giải quyết nước sinh hoạt cho hơn 217.600 hộ. Tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị, đồ dùng dạy học ở 316 trường phổ thông dân tộc nội trú, 1.097 trường phổ thông dân tộc bán trú; 6 cơ sở dự bị đại học và đại học, 3 trường trung học phổ thông dân tộc nội trú khu vực.
Đồng thời, sắp xếp, ổn định dân cư cho hơn 12.000 hộ dân tộc thiểu số thuộc diện di cư tự phát; Định canh, định cư bền vững cho hơn 1.300 hộ dân tộc thiểu số; Bố trí ổn định dân cư vùng đặc biệt khó khăn, biên giới và khu vực nguy cơ cao về thiên tai cho hơn 51.200 hộ; Giải quyết đất ở cho hơn 17.400 hộ; Giải quyết nhà ở cho hơn 16.700 hộ; Giải quyết đất sản xuất cho hơn 126.200 hộ; Giải quyết sinh kế cho hơn 227.600 hộ.
Hỗ trợ ăn trưa cho hơn 1,26 triệu em học sinh ở địa bàn đặc biệt khó khăn; thực hiện chương trình “Cán bộ, chiến sĩ Quân đội nâng bước em tới trường” cho hơn 5.000 em học sinh dân tộc thiểu số khó khăn/năm; dạy nghề cho hơn 3 triệu người; tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho hơn 4 triệu hộ đồng bào dân tộc thiểu số và hộ dân tộc Kinh nghèo, cận nghèo ở xã, thôn đặc biệt khó khăn…
Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Hà Ngọc Chiến cho biết, Thường trực Hội đồng Dân tộc đánh giá cao sự cần thiết đầu tư Chương trình MTQG để thể chế hóa Kết luận số 65-KL/TW, ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về công tác dân tộc trong tình hình mới” và thực hiện Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội “Phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030”.
Báo cáo thẩm tra của Hội đồng Dân tộc cũng nêu rõ: Nghị quyết số 88 của Quốc hội yêu cầu xây dựng và ban hành tiêu chí phân định vùng đồng bào DTTS&MN theo trình độ phát triển, làm cơ sở xác định đối tượng, địa bàn, nhu cầu đầu tư của Chương trình, nhưng đến nay Chính phủ chưa kịp ban hành bộ tiêu chí này, nên chưa xác định cụ thể, chính xác phạm vi, đối tượng thực hiện. Thường trực HĐDT đề nghị, Chính phủ khẩn trương ban hành bộ tiêu chí phân định vùng DTTS&MN theo trình độ phát triển, rà soát, lựa chọn và có quyết định phê duyệt xã, thôn cụ thể thuộc diện đầu tư của Chương trình MTQG. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo cơ quan chủ quản Chương trình MTQG Giảm nghèo bền vững, Chương trình MTQG xây dựng Nông thôn mới phối hợp với Chương trình này rà soát, làm rõ phạm vị đối tượng thực hiện giữa các Chương trình.
Sớm ban hành bộ tiêu chí phân định vùng dân tộc thiểu số và miền núi
Thảo luận về Chương trình mục tiêu quốc gia này, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển nhấn mạnh đây là Chương trình mục tiêu quốc gia kéo dài 10 năm. Do đó, cần bám vào Luật Đầu tư công để xây dựng các dự án thành phần của Chương trình để làm thay đổi căn bản đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi về đời sống, sản xuất, kinh tế-xã hội…
Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển đề nghị, Đề án này cần bám sát phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm” để nâng cao ý thức và trách nhiệm của Nhân dân thì chương trình mới có thể thành công được.
Chủ nhiệm Uỷ ban Đối ngoại Nguyễn Văn Giàu nhấn mạnh: Cần tích hợp chính sách, dự án để chương trình này phát huy hiệu quả chứ không để xung đột, dẫn đến hạn chế hiệu qủa của chính sách.
Kết luận phiên họp, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng cho biết: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hoan nghênh và đánh giá cao Chính phủ đã khẩn trương, chấp hành Nghị quyết 88 của Quốc hội về phê duyệt tổng thể phát triển KT-XH vùng dân tộc thiẻu số và miền núi, có sự tham gia tích cực của các bộ ngành Trung ương.
Đồng thời, Phó Chủ tịch Quốc hội cũng đề nghị Chính phủ sớm có bộ tiêu chí phân định vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo Nghị quyết của Quốc hội, trong đó nhấn mạnh đến đại đoàn kết dân tộc và ổn định chính trị của khu vực này phải được đặc biệt quan tâm.
Theo đó, các nội dung mà UBTVQH đặt vấn đề có phân kỳ thời gian và 10 tiểu dự án với việc tập trung vào những vùng khó khăn nhất, người khó khăn nhất, xác định rõ phạm vi và giải pháp cho việc thực hiện Nghị quyết này là hết sức cần thiết.
* Cũng trong chiều nay, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về báo cáo nội dung dự kiến tiếp thu, chỉnh lý trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội trên cơ sở ý kiến của đại biểu Quốc hội chuyên trách và các đoàn đại biểu Quốc hội.
Ý kiến ()