Trường Ðại học Nông nghiệp Hà Nội 55 năm xây dựng và phát triển
Trường là chiếc nôi đầu tiên đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật và cá n bộ quản lý n ôngnghiệp có trình độ đại học và trên đại học; là trung tâm nghiên cứu khoa học và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và c ôngnghệ phục vụ sản xuất NN và phát triển NT, đáp ứng yêu cầu củasự nghiệp xây dựng, bảo vệ và hội nhập quốc tế củađất nước.
Trường đại học N ông– Lâm, tiền thân củaTrường ĐHNNHN ngày nay, được thành lập theo Nghị định số 53/NL-NĐ, ngày 12-10-1956, của Bộ N ônglâm nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hơn nửa thế kỷ xây dựng và phát triển, để đáp ứng cá c nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn lịch sử củađất nước, nhà trường đã nhiều lần mang cá c tên gọi khác nhau: Trường đại học N ônglâm, Học viện N ônglâm, Trường đại học N ôngnghiệp, Trường đại học N ôngnghiệp I; có thời gian trường có tên Trường đại học N ôngnghiệp I mang tên Hô-xê-mác-ty, vị lãnh tụ, người anh hùng của cá ch mạng Cu-ba. Trên con đường kh ôngngừng phát triển 55 năm qua, Trường ĐHNNHN luôn là một trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, một trung tâm nghiên cứu tiên tiến về khoa học-kỹ thuật, về kinh tế và chính sách n ôngnghiệp, n ôngthôn của cả nước. Nhiều c ôngtrình khoa học, nhiều quy trình c ôngnghệ, nhiều tiến bộ kỹ thuật, nhiều cải tiến quản lý do cá c thế hệ thầy và trò nhà trường sáng tạo ra đã có những đóng góp xuất sắc, bằng cả lý luận và thực tiễn, cho sự nghiệp phát triển n ôngnghiệp hiện đại, bền vững và n ôngthôn Việt Nam văn minh, giàu đẹp.
Dưới ánh sáng của cá c nghị quyết (NQ) T.Ư 2 (khóa VIII) về giáo dục và đào tạo, NQ14 củaChính phủ về đổi mới giáo dục đại học (GDĐH), nhất là Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo nhằm đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam, trong những năm gần đây, Trường ĐHNNHN đã thực hiện đổi mới mạnh mẽ c ôngtác quản lý hành chính, đào tạo, nghiên cứu khoa học (NCKH) và chuyển giao CN, đáp ứng kịp thời tinh thần của NQ T.Ư7 (khóa X) về n ôngnghiệp, n ôngthôn, n ôngdân và xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Trên tinh thần thực học, thực nghiệp và lấy người học làm trung tâm, nhà trường đã xây dựng Chiến lược phát triển trường, Quy hoạch phát triển tổng thể, Quy hoạch phát triển chi tiết trường đến năm 2020 với mục tiêu xây dựng trường thành trường ĐH nghiên cứu đa ngành tiêu biểu trong hệ thống cá c trường ĐH của đất nước, tiên tiến trong khu vực, đủ sức giải quyết những vấn đề mang tầm quốc gia và thời đại, chủ động tham gia sâu rộng vào quá trình hội nhập quốc tế, có những đóng góp thiết thực – bằng cả lý luận và thực tiễn – phục vụ đắc lực sự nghiệp CNH, HĐH n ôngnghiệp, n ôngthôn.
Để thực hiện mục tiêu nêu trên, nhà trường đặc biệt coi trọng c ôngtác xây dựng đội ngũ. Gần 1.300 CBVC hiện đang giảng dạy, NCKH và phục vụ tại 13 khoa, 14 phòng, ban, 14 viện, trung tâm nghiên cứu, c ôngty; trong đó có hơn 700 cán bộ giảng dạy (CBGD), gần 300 nghiên cứu viên, 75 giáo sư, phó giáo sư, hơn 25% số CBGD có học vị tiến sĩ, hơn 40% số CBGD có học vị thạc sĩ, hầu hết số tiến sĩ và thạc sĩ này được đào tạo từ cá c nước có nền giáo dục và khoa học tiên tiến. C ôngtác xây dựng đội ngũ, kiện toàn bộ máy và đổi mới cơ chế quản lý đạt nhiều bước tiến quan trọng: giảm số lượng cá n bộ phục vụ gián tiếp từ 50% xuống còn 40%, và sẽ tiếp tục giảm xuống còn 30%; xây dựng đội ngũ CBVC chuyên nghiệp, thực hiện đổi mới quản lý hành chính theo hướng tinh giản, gọn nhẹ, chuyên nghiệp, lấy hiệu quả là thước đo, lấy sinh viên (SV) là đối tượng phục vụ, SV là chủ thể củanhà trường. Trên cơ sở chuẩn hóa chương trình đào tạo, chuẩn hóa đầu ra củasinh viên đáp ứng nhu cầu xã hội, nhà trường tiến hành thực hiện chuẩn hóa đội ngũ, khuyến khích cán bộ giảng dạy áp dụng các phương pháp giảng dạy tiên tiến, ưu tiên đào tạo CBGD trẻ, hằng năm tuyển mới gần 100 CBGD mới và đồng thời cũng gửi hàng trăm CBGD trẻ đi đào tạo sau đại học (SĐH) đi học tập, nghiên cứu, bồi dưỡng ngắn hạn ở nước ngoài.
Đáp ứng yêu cầu củathị trường lao động, quy mô đào tạo củanhà trường, nhất là đào tạo SĐH, tăng mạnh trong những năm gần đây, nhà trường đã mở nhiều ngành nghề đào tạo mới, hiện trường có 46 chuyên ngành đào tạo đại học, 16 chuyên ngành cao học và 20 chuyên ngành tiến sĩ; thực hiện đa dạng hóa các loại hình đào tạo. Cùng với việc đào tạo cán bộ KHKT và quản lý trình độ cao, nhà trường còn coi trọng đào tạo cá n bộ c ôngchức cấp cơ sở, đáp ứng nhu cầu quản lý nhà nước về xây dựng n ôngthôn mới. Nhà trường đã đi đầu trong việc đổi mới phương pháp đào tạo, nội dung đào tạo, xây dựng chuẩn chương trình, chuẩn đầu ra cho sinh viên tốt nghiệp, mở ra nhiều chương trình đào tạo liên kết trình độ ĐH và SĐH với cá c trường ĐH, viện nghiên cứu danh tiếng củaHoa Kỳ, Hà Lan, Bỉ, Thái-lan… như UC Davis, ĐH Wisconsin-Madison, ĐH Waginigen, ĐH Liege, học viện kỹ thuật châu Á (AIT)… Hiện nay nhà trường tuyển mới hằng năm hơn 6.000 sinh viên hệ chính quy, giảm dần quy mô tuyển sinh cá c hệ kh ôngchính quy, 1.250 học viên cao học và 60-70 NCS; quy mô sinh viên hằng năm hiện nay củatrường ở tất cả cá c hệ đào tạo lên tới hơn 23.000 người. Quy mô mở rộng, nhưng chất lượng đào tạo luôn được củng cố và nâng cao; vì vậy, vị thế và uy tín củanhà trường trong xã hội ngày càng được tăng cường, ngày càng nhiều thí sinh đăng ký dự thi vào trường.
Khắc phục khó khăn, dám nghĩ, dám làm, năng động, sáng tạo, luôn bám sát thực tiễn là phương châm hoạt động của cá c nhà khoa học trong NCKH. Vì vậy, c ôngtác NCKH và sáng tạo c ôngnghệ, chuyển giao TBKT phục vụ sản xuất n ôngnghiệp và phát triển n ôngthôn củaNhà trường đạt nhiều thành tựu nổi bật. NCKH là nhiệm vụ chính trị củatất cả CBGD, 100% số GV cơ hữu đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức định mức NCKH được giao. Trong những năm gần đây, cá c nhà KH củatrường thực hiện hơn 70 đề tài, chương trình cấp nhà nước, hơn 1.400 đề tài, chương trình cấp bộ, cấp tỉnh và cấp cơ sở, hàng trăm đề tài, dự án hợp tác quốc tế. Cá c nhà khoa học của trường đi đầu trong việc ứng dụng c ôngnghệ sinh học trong lai tạo cá c giống cây trồng ưu thế lai, làm chủ c ôngnghệ vi nhân giống, đồng tác giả c ôngtrình lợn lai năng suất và chất lượng cao; các giống lúa lai 2 dòng đầu tiên mang thương hiệu VL và TH (VL20, VL50, TH3-3, TH3-4, v.v.), cá c giống cà chua lai đầu tiên mang thương hiệu HT (HT7, HT21, HT46, v.v.) củaViệt Nam đều do cá c nhà khoa học của nhà trường tạo ra; trong đó có nhiều c ôngtrình có giá trị thương mại hóa cao đã được áp dụng rộng rãi vào sản xuất ở nhiều địa phương như các giống lúa lai 2 dòng, giống lúa thuần chất lượng cao, giống cà chua lai chất lượng cao thích ứng khí hậu nhiệt đới… Cùng với các giống cây, con mới là cá c tiến bộ kỹ thuật về canh tác tiết kiệm chi phí, thử nghiệm thành c ôngsản xuất cà chua xuân hè, nhân nhanh khoai tây giống sạch bệnh, phát triển c ôngnghệ khí canh, sản xuất các enzyme, xử lý và chế biến rác thải hữu cơ, chế tạo một số vắc-xin chịu nhiệt, vắc-xin dịch tả vịt, xác định cá c loại vi-rút gây bệnh nguy hiểm cho lúa (như bệnh lùn sọc đen, bệnh vàng lụi…) bằng c ôngnghệ phân tích phân tử và giải trình tự gien, giải trình tự gien vi-rút gây bệnh tai xanh và chế tạo KIT chẩn đoán bệnh tai xanh trên lợn, chế tạo gần 40 mẫu máy n ôngnghiệp vừa và nhỏ, ứng dụng GIS và viễn thám trong quy hoạch sử dụng đất, trong quản lý tài nguyên và dự báo, phòng, chống thiên tai, nghiên cứu về bảo quản và chế biến n ôngsản, về ứng dụng c ôngnghệ th ôngtin trong giảng dạy và quản lý, về phân tích ngành hàng, phân tích chính sách, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, chuyển dịch cơ cấu lao động, liên kết cùng với địa phương xây dựng hàng loạt mô hình sản xuất hợp lý và mô hình hợp tác, liên kết mới, hiệu quả trên cá c vùng sinh thái điển hình trong quá trình xây dựng n ôngthôn mới, v.v. Số lượng cá c bài báo của các nhà khoa học Trường ĐHNNHN xuất hiện ngày càng nhiều trên cá c tạp chí khoa học quốc tế có uy tín. C ôngtác nghiên cứu khoa học trong sinh viên đạt thành tích xuất sắc, nhiều c ôngtrình đã giành được giải thưởng VIFOTEC, đã nhận được bằng khen củaBộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ NN và PTNT, Bộ KHCN và cá c tỉnh, thành phố. Kinh phí NCKH luôn cao hơn 25% tổng nguồn thu củanhà trường. Cùng với việc ra đời của NXB Đại học N ôngnghiệp, tạp chí Khoa học và Phát triển có chỉ số ISSN được xuất bản bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh được cộng đồng khoa học trong nước đánh giá cao, là một trong cá c tạp chí được HĐ Chức danh GS Nhà nước cho điểm tối đa; hiện nay bản tiếng Anh củaTạp chí đã có một số nhà khoa học ngoài nước gửi đăng bài trên tạp chí này.
Hợp tác quốc tế phát triển trên tầm cao mới trong nhiều lĩnh vực đào tạo, NCKH, trao đổi th ôngtin,… đã góp phần quan trọng nâng dần vị thế củatrường trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào cộng đồng cá c trường đại học trên thế giới. Trường đang có quan hệ hợp tác với 58 trường đại học, viện nghiên cứu có uy tín chuyên môn cao củanước ngoài, và với nhiều tổ chức quốc tế. Các dự án hợp tác quốc tế mang lại hiệu quả to lớn và thiết thực: nhiều phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn quốc tế do JICA, WB, Bỉ và Ô-xtrây-li-a tài trợ. Năm năm gần đây đã có gần 2.000 lượt CBGD được cử đi đào tạo và bồi dưỡng ở nước ngoài, trong đó có 159 người đi đào tạo thạc sĩ và 137 CBGD khác được cử đi đào tạo tiến sĩ; đồng thời, nhà trường cũng tiếp nhận gần 100 thực tập sinh đến từ Mỹ, Ô-xtrây-li-a, Đức, Đan Mạch, Bỉ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Séc và nhiều nước khác; nhà trường còn đào tạo cho các nước bạn Lào và Cam-pu-chia hơn 400 kỹ sư và thạc sĩ, tiến sĩ các ngành kỹ thuật và quản lý kinh tế; và hiện đang nhận đào tạo kỹ sư cho Mô-dăm-bích.
Về tăng cường cơ sở vật chất, chỉ tính riêng mười năm qua nhà trường đã xây dựng mới hơn 60.000 m2 nhà làm việc, giảng đường, nhà ở sinh viên, cơ sở nghiên cứu, thí nghiệm và thực hành, trong đó có nhiều phòng thí nghiệm hiện đại, tương đương với cá c phòng thí nghiệm của cá c nước tiên tiến trong khu vực. Nhiều c ôngtrình mới như Quảng trường Bùi Huy Đáp, Thư viện Lương Định Của , Giảng đường Nguyễn Đăng, Nhà thi đấu đa năng, Nhà khách c ôngvụ, KTX sinh viên C2, C3, KTX cho SV nước ngoài và nhiều c ôngtrình cơ sở hạ tầng khác đã và đang được đầu tư hoàn thiện đã làm cho cảnh quan nhà trường thêm khang trang, góp phần quan trọng vào nâng cao chất lượng đào tạo, NCKH, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho SV và CBVC.
55 năm qua, nhà trường đã đào tạo cho đất nước gần 70 nghìn kỹ sư và cử nhân, gần 3.500 thạc sĩ, hơn 350 tiến sĩ; đội ngũ cán bộ do trường đào tạo chiếm hơn 65% số cá n bộ KHKT và quản lý ngành n ôngnghiệp và phát triển n ôngthôn của cả nước, họ vừa có phẩm chất chính trị vững vàng, vừa có trình độ chuyên môn cao, đã và đang là lực lượng nòng cốt, chủ đạo trên mặt trận KHKT và quản lý kinh tế n ôngnghiệp, xây dựng n ôngthôn mới ở khắp mọi miền Tổ quốc. Trong số đó, nhiều người đã trở thành các nhà khoa học có uy tín cao, nhiều nhà giáo mẫu mực, nhiều doanh nhân tiêu biểu, nhiều cán bộ lãnh đạo và quản lý tài giỏi, từ cơ sở sản xuất đến lãnh đạo các địa phương, lãnh đạo một số bộ, ngành trung ương. Đáng chú ý, tám cựu cá n bộ, sinh viên của trường được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, hai cựu SV là Anh hùng LLVTND, hai cô giáo được nhận giải thưởng Cô-va-lép-xcai-a, hơn 80 nhà giáo được vinh danh là Nhà giáo Nhân dân, Nhà giáo Ưu tú, gần 200 nhà giáo được nhận chức danh GS, PGS, gần 100 nhà giáo và SV được nhận giải thưởng VIFOTEC, được trao bằng lao động sáng tạo; ba c ôngtrình và cụm c ôngtrình được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh, nhiều c ôngtrình và cụm c ông trình khoa học được trao giải thưởng Nhà nước, hàng trăm tiến bộ kỹ thuật, giống mới, biệnpháp canh tác mới, biệnpháp quản lý mới… được c ôngnhận và áp dụng rộng rãi vào sản xuất, đóng góp tích cực cho sự phát triển n ôngnghiệp và n ôngthôn. Trong thời kỳ đổi mới, nhà trường đã có những đóng góp xuất sắc cho sự phát triển của sản xuất n ôngnghiệp, phát triển n ôngthôn và xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam.
Với những cống hiến to lớn ấy, nhà trường đã vinh dự được nhận nhiều phần thưởng cao quý củaĐảng và Nhà nước: Huân chương Lao động hạng nhất, hạng nhì, hạng ba; Huân chương Độc lập hạng nhất, hạng nhì, hạng ba; Huân chương Hồ Chí Minh, danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới và nhiều Huân chương, Huy chương, Bằng khen củaChính phủ, của các bộ, ngành, cá c địa phương và của các nước bạn Lào, Cam-pu-chia. Đồng thời, trường nhiều lần vinh dự đón các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội về thăm như cá c đồng chí: Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Đỗ Mười, N ôngĐức Mạnh, Nguyễn Thị Bình, Trương Tấn Sang,… Đặc biệt, trường được đón Bác Hồ về thăm vào ngày 24-5-1959. Trong lần về thăm ấy, Người đã ghi vào Sổ vàng truyền thống của nhà trường dòng chữ “đoàn kết chặt chẽ, cố gắng kh ôngngừng để tiến bộ mãi”. Lời dạy ấy củaBác đã trở thành di sản thiêng liêng và quý báu của các thế hệ CBVC và SV Trường ĐHNNHN trong suốt quá trình phát triển.
Thế hệ ngày nay đang kế thừa xuất sắc truyền thống vẻ vang, tiếp tục đoàn kết để đổi mới và đổi mới hơn nữa, sáng tạo và sáng tạo hơn nữa, nỗ lực và nỗ lực hơn nữa, luôn “cố gắng kh ôngngừng” trong cá c hoạt động củanhà trường, để nhà trường “tiến bộ mãi”, để xây dựng môi trường giáo dục trung thực, lành mạnh và hiện đại, môi trường NCKH trung thực, tự do và sáng tạo. Đáp ứng nguyện vọng chính đáng củangười học, nhu cầu của xã hội và yêu cầu cấp thiết phát triển nhà trường; góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI về Đổi mới căn bản và toàn diện GD Việt Nam, về phát triển n ôngnghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khóa X) về N ôngnghiệp, n ôngdân, n ôngthôn và Nghị quyết Hội nghị T.Ư 7 (khóa X) về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, luôn xứng đáng là trường đại học trọng điểm quốc gia, trường đại học Anh hùng.
Ý kiến ()