Trồng lúa nước trên núi, giúp cái bụng dân no
Bộ đội Công ty 72 (Binh đoàn 15) hướng dẫn người dân tộc Gia Rai trồng lúa. Đến vùng biên giới Đức Cơ (Gia Lai), ngỡ ngàng khi nhìn thấy trên những ngọn núi cao ngập tràn mây phủ là một cánh đồng lúa rộng mênh mông, xanh tốt. Lúa nước trồng trên núi đã giúp hàng nghìn hộ đồng bào dân tộc thiểu số người GiA Rai đẩy lùi cái đói nghèo, lạc hậu, chung sức xây dựng vùng biên giới ngày càng phát triển, giàu đẹp.Không biết tự khi nào, người dân địa phương gọi làng Tung, xã biên giới Ia Nan, huyện Đức Cơ là làng 72. Chỉ biết từ khi có tên gọi đó thì cuộc sống người dân trong làng ngày một giàu lên. Con đường vào làng 72 đã được nhựa hóa hoàn toàn. Hai bên đường nối tiếp nhau là những vườn cà-phê sai trĩu quả, những cánh rừng cao-su bạt ngàn, những đồng lúa xanh tốt hứa hẹn một mùa bội thu no đủ. Trong làng, những ngôi nhà mới xây theo kiểu "biệt thự mái Thái" rất khang trang, hàng hóa bày bán rất nhiều... minh chứng cho sự giàu có,...
Bộ đội Công ty 72 (Binh đoàn 15) hướng dẫn người dân tộc Gia Rai trồng lúa. |
Không biết tự khi nào, người dân địa phương gọi làng Tung, xã biên giới Ia Nan, huyện Đức Cơ là làng 72. Chỉ biết từ khi có tên gọi đó thì cuộc sống người dân trong làng ngày một giàu lên. Con đường vào làng 72 đã được nhựa hóa hoàn toàn. Hai bên đường nối tiếp nhau là những vườn cà-phê sai trĩu quả, những cánh rừng cao-su bạt ngàn, những đồng lúa xanh tốt hứa hẹn một mùa bội thu no đủ. Trong làng, những ngôi nhà mới xây theo kiểu “biệt thự mái Thái” rất khang trang, hàng hóa bày bán rất nhiều… minh chứng cho sự giàu có, phát triển bền vững. Hơn 70% số hộ khá, giàu là con số ấn tượng tại một làng quê vùng biên giới, nơi sinh sống của hơn 163 hộ dân, gần 720 nhân khẩu, tất cả đều là người dân tộc Gia Rai.
Tiếp chúng tôi tại nhà rông văn hóa, ông Khuyên Đông, già làng Tung cho biết: Cách đây năm năm, đời sống của nhân dân xã Ia Nan nói chung, làng Tung nói riêng gặp rất nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ đói, nghèo chiếm hơn 90%. Quanh năm trên nương rẫy “chặt, đốt, chọc, tỉa”, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, nhưng cuối năm thu về cũng chỉ hai, ba tạ lúa, một ít hạt bắp, củ mì, chỉ đủ ăn từ sáu đến bảy tháng/năm, còn lại sống nhờ vào củ mài và rau rừng. Chính hậu quả của nghèo, đói là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội như chôn chung, trộm cắp, di cư tự do, vượt biên trái phép… xảy ra trên địa bàn. Đang loay hoay tìm lối thoát nghèo, thì dân làng chúng tôi được bộ đội Công ty 72 (Binh đoàn 15) đến tiếp sức, vừa tuyên truyền vận động bà con chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, vừa tuyển dụng con em địa phương vào làm công nhân, đặc biệt Công ty 72 đã khai hoang gần 14 ha đất, tiến hành trồng lúa nước, rồi trao cho bà con. Đây thật sự là “chiếc cần câu”, để giúp người dân làng Tung phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, ổn định cuộc sống, góp phần giữ vững an ninh trật tự vùng biên giới. Hiện nay, làng không còn hộ nghèo đói, khoảng 30% số hộ trung bình khá, số còn lại là hộ khá và hộ giàu, cũng từ đó người dân địa phương gọi làng Tung là làng 72, như một sự ghi nhận công lao của bộ đội Công ty 72 giúp bà con làm giàu.
Không giấu được niềm vui, Đại tá Phạm Văn Giang, Giám đốc Công ty 72 (Binh đoàn 15) cho chúng tôi biết: “Những năm đầu trồng cao-su và cà-phê chưa thu hoạch được, mặc dù đã “dốc túi” hỗ trợ đồng bào tất cả lương thực, thực phẩm mà đơn vị có được, song đời sống bà con vẫn còn nhiều khó khăn. Lãnh đạo Công ty 72 bàn cách tiếp tục giúp đồng bào vùng biên thoát nghèo, ổn định cuộc sống sao cho hiệu quả, trước mắt là giúp bà con trồng cây lúa nước. Mới nghe, nhiều người dân ở làng Tung đã giãy nảy như “đỉa phải vôi”. Theo họ thì ông cha từ ngàn đời nay có ai trồng lúa nước bao giờ đâu? Ở rừng đất đai nhiều, có thiếu đâu mà đi ngăn đập, khai hoang đất trồng lúa nước… Không nản, bộ đội vẫn tiếp tục khai hoang đất, cải tạo, phục hồi đất chua phèn và tiến hành đầu tư hơn 300 triệu đồng, trồng được gần 14 ha lúa nước, 3 km kênh mương thủy lợi.
Hôm trồng lúa, mặc dù đã thông báo cho bà con đến nhận ruộng và hướng dẫn cách trồng, bón phân, chăm sóc… nhưng cả làng Tung chỉ có ông bí thư chi bộ, mấy đảng viên và một số đoàn viên, thanh niên có mặt. Phần lớn người dân khi ấy không tin cây lúa nước sống được trên núi và những vùng “đồng chua, nắng hạn”. Dân chưa tin, chưa nhận ruộng thì mình phải làm cho dân tin. Cán bộ, chiến sĩ Công ty 72 vận dụng đúng kỹ thuật từ khâu trồng đến bón phân, phun thuốc trừ sâu, chăm sóc… Lúa lên nhanh, xanh tốt, được mùa, lãnh đạo công ty mời dân làng và chính quyền đến vừa tuyên truyền cách trồng lúa nước, vừa tiến hành bàn giao những ruộng lúa vàng nặng hạt cho bà con”.
Có lúa, có đất trồng lúa bộ đội trao, nhưng đâu dễ, bà con người Gia Rai vốn chỉ quen với bản năng vào núi rừng để kiếm ăn, chứ có ai biết hay nghĩ đến chuyện trồng cây lúa nước. Biết được tâm lý đó, cán bộ, chiến sĩ Công ty 72 lại đến từng nhà, cấp giống, phân, lại xắn quần xuống ruộng gieo cấy trước cho bà con thấy để làm theo. Từng chiến sĩ đến từng đám ruộng, nắm tận tay từng người để hướng dẫn từng đường cày, đường cấy, dặm từng cây lúa, nhổ từng bụi cỏ. Bên cạnh đó, Công ty 72 lại vừa nghiên cứu, xây dựng thêm mô hình đưa cây lúa nước hai vụ vào sản xuất, tiếp tục tổ chức khai hoang, hướng dẫn kỹ thuật chăm bón và trồng thử nghiệm thêm 20 ha tại làng Chan, làng Sơn. Sau một thời gian “cầm tay, chỉ việc”, bà con đã thành thạo và làm chủ được kỹ thuật. Một năm, hai vụ tiếp theo, thành công đã thấy rất rõ ràng. Người Gia Rai ở vùng biên giới Đức Cơ đã thành thạo cái việc cày ra đường thẳng, gieo sạ hạt lúa, tự mình xuống ruộng trồng lúa, cầm liềm gặt nhanh tay và hạt lúa đã chất đầy chòi. Từ năm 2009, công ty tiến hành tuyên truyền, hướng dẫn cho bà con trồng lúa nước đại trà trên vùng biên giới và đem lại kết quả ngoài sự mong đợi, năng suất đạt từ 37 đến 40 tạ/ha, tăng gấp bảy lần lúa rẫy, góp phần bảo đảm an ninh lương thực cho địa phương.
Một trong những người tiên phong theo bộ đội trồng lúa nước ngay từ những ngày đầu, già làng Siu Quý bộc bạch: “Mặc dù có bộ đội tiếp sức, nhưng thời gian đầu trồng lúa nước khó khăn lắm, bỏ ra một triệu đồng để làm, nhưng cuối vụ chỉ thu về từ năm đến bảy trăm thôi. Vợ thì buồn, mọi người đòi phạt tôi vì nghe bộ đội mang cây lúa lạ về trồng nên bị Giàng chê. Không nản chí tôi cứ làm, cứ trồng, vừa trồng vừa học hỏi và rút ra kinh nghiệm từ cày đất, chọn giống, bón phân, khử mặn, trừ phèn… Chỉ hai năm sau mọi công đoạn tôi đã quá quen thuộc. Ruộng đất phèn, đất chua thì dùng vôi, muối khử và chọn giống lúa Khang dân để hợp với chất đất; vụ xuân – hè thì chọn giống lúa PT6 để chịu hạn… Để trồng một sào lúa nước trên núi, phải mua 4,5 kg giống (khoảng 60 nghìn đồng), 20 kg phân NPK bón lót và bón thúc (khoảng 200 nghìn đồng), 5 đến 7 kg phân u-rê bón thúc đòng (khoảng 70 nghìn đồng), thuốc bảo vệ thực vật khoảng 30 nghìn đồng, thuê máy làm đất 100 nghìn đồng, thuê máy gặt 700 nghìn đồng… Mỗi ha lúa thu hoạch xong vẫn còn lãi được khoảng từ 20 đến 22 triệu đồng. Tất cả hiểu biết và kinh nghiệm có được tôi đều san sẻ cho dân làng, mong sao bà con trồng được nhiều lúa, no đủ”.
Giới thiệu với chúng tôi làng 72, làng Chan, làng Boong… là những “ngôi làng tỷ phú”, làng không còn hộ đói nghèo trên vùng biên giới, Bí thư Đảng ủy xã Ia Nan Rơ Châm Quát cho biết: “Nhờ cây lúa nước của bộ đội 72 trao và hướng dẫn, mà ngày nay người Gia Rai mình đã no đủ, nhiều hộ giàu có. Từ không biết gì về cây lúa lạ, đến nay bà con đã biết lịch thời vụ, biết chọn giống lúa cho phù hợp với chất đất, biết lấy phân con trâu, con bò, con lợn để bón lúa, lại biết cả phun thuốc trừ sâu… Từ buổi đầu không có ai biết trồng lúa nước, đến nay trong xã đã có hơn 1.570 hộ trồng lúa nước (riêng làng 72 có đến 163 hộ). Diện tích lúa nước đã lên con số hơn 60 ha, không chỉ mở rộng trên địa bàn và còn lan rộng hàng nghìn héc-ta ở Ia Mơ (Chư Prông), Ia O (Ia Grai), Ia Ly (Chư Pãh), tỉnh Gia Lai; Mo Rai, Sa Thầy, Ngọc Hồi (Kon Tum)… Bộ đội trao cho bà con cây lúa, hạt gạo là cả một quá trình lao động thấm đẫm mồ hôi, một hành trình nảy mầm cho cách thức canh tác mới. Việc trồng cây lúa nước hai vụ trên núi đã tạo ra bước ngoặt lớn làm thay đổi nhận thức, tập quán sinh hoạt, lao động và phương thức sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng của bà con dân tộc thiểu số Gia Rai. Từ thiếu ăn, đói khổ, đến nay bà con đã có lúa để bán, nhiều hộ giàu lên, có thu nhập trung bình từ 200 đến 300 triệu đồng/năm. Tiêu biểu như gia đình Brao, Rơ Manh Thưng, Rơ Lan Thức, Rơ Lan Sang và già làng Siu Quý…
Đời sống của bà con không ngừng được nâng cao, vươn lên thoát nghèo. Kinh tế phát triển, chuyện gây rối, vượt biên trái phép, các tệ nạn xã hội, hủ tục lạc hậu đã không còn, thay vào đó là nếp sống văn hóa lành mạnh, là tiền đề tiến tới hoàn thành những mục tiêu xây dựng nông thôn mới.
Theo Nhandan
Ý kiến ()