Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu nông, lâm, thủy ước đạt 66 tỷ USD
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính chung 8 tháng, đã có 7 sản phẩm, nhóm sản phẩm có giá trị xuất khẩu trên 2 tỷ USD là càphê, cao su, gạo, rau quả, điều, tôm, sản phẩm gỗ.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 8 tháng, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu nông, lâm, thủy sản ước đạt khoảng 66,2 tỷ USD, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong số đó, giá trị xuất khẩu ước khoảng 36,3 tỷ USD, tăng 13,1%; nhập khẩu ước khoảng 29,9 tỷ USD, tăng 3,9%. Như vậy, giá trị xuất siêu nông, lâm, thủy sản 8 tháng trên 6,3 tỷ USD, tăng 94,6% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong tháng Tám, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản ước gần 4,4 tỷ USD, tăng 32% so với tháng 8/2021, tăng 0,3% so với tháng 7/2022. Trong số đó, nhóm nông sản chính trên 1,8 tỷ USD, lâm sản chính trên 1,4 tỷ USD, thủy sản 893,8 triệu USD và chăn nuôi 41,6 triệu USD…
Tính chung 8 tháng, xuất khẩu nhóm nông sản chính đạt gần 15 tỷ USD, tăng 7,4%; lâm sản chính đạt trên 11,8 tỷ USD, tăng 6,2%; thủy sản đạt trên 7,5 tỷ USD, tăng 35,3%; chăn nuôi đạt 258,6 triệu USD, giảm 12,2%; đầu vào sản xuất gần 1,7 tỷ USD, tăng 48,2%.
Đã có 7 sản phẩm, nhóm sản phẩm có giá trị xuất khẩu trên 2 tỷ USD là càphê, cao su, gạo, rau quả, điều, tôm, sản phẩm gỗ.
Nhiều mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu cao hơn cùng kỳ năm ngoái, như càphê trên 2,8 tỷ USD, tăng 40,3%; cao su trên 2 tỷ USD, tăng 8,1%; gạo trên 2,3 tỷ USD, tăng 8,1%; hồ tiêu khoảng 712 triệu USD, tăng 8,2%; sắn và sản phẩm sắn 941 triệu USD, tăng 22,5%; cá tra trên 1,7 tỷ USD, tăng 82,6%; tôm gần 3 tỷ USD, tăng 22%; gỗ và sản phẩm gỗ trên 11 tỷ USD, tăng 6,5%.
Bên cạnh đó, có một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu giảm gồm: nhóm hàng rau quả gần 2,2 tỷ USD, giảm 13,9%; hạt điều gần 2,1 tỷ USD, giảm 10,4%; sản phẩm chăn nuôi 258,6 triệu USD, giảm 12,3%…
Về thị trường xuất khẩu, qua 8 tháng, các thị trường thuộc khu vực châu Á, chiếm 43,1% thị phần; châu Mỹ 28,9%; châu Âu 11,8%; châu Đại Dương 1,7% và châu Phi 1,6%.
Mỹ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất, đạt gần 9,6 tỷ USD, chiếm 26,4% thị phần; đứng thứ 2 là thị trường Trung Quốc khoảng 6,5 tỷ USD, chiếm 17,8% thị phần; thứ 3 là thị trường Nhật Bản trên 2,7 tỷ USD, chiếm 7,4%) thứ 4 là thị trường Hàn Quốc với trên 1,7 tỷ USD, chiếm 4,7%.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trước những khó khăn về thị trường, Bộ đã phối hợp với các Đại sứ quán, Tham tán Thương mại, Tham tán Nông nghiệp tăng cường xúc tiến, quảng bá theo hình thức trực tuyến (online) đối với các sản phẩm đã được mở cửa, xuất khẩu chính ngạch vào các thị trường gắn liền với các hoạt động ngoại giao của Chính phủ, bộ ngành vào các thị trường lớn như: Trung Quốc, Mỹ, EU, Nga… và khai thác hiệu quả các thị trường tiềm năng từ Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN, Trung Đông…
Ngành gia tăng các ngành hàng xuất khẩu có giá trị, chất lượng. Điển hình như các loại quả tươi chủ lực như xoài, thanh long, chanh leo, nhãn, vải… đã xuất khẩu đi nhiều quốc gia, đặc biệt là các thị trường lớn như EU, Mỹ, Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Newzealand, Trung Quốc, Trung Đông, ASEAN…
Hiện, Bộ đang đàm phán mở cửa thị trường cho các loại nông sản chủ lực như: sầu riêng, khoai lang, ớt, chanh leo, nhãn, bưởi, xoài sang các thị trường như Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Australia, New Zealand, Hàn Quốc.
Trong lĩnh vực thủy sản, số sản phẩm, doanh nghiệp được phép xuất khẩu sang các thị trường gia tăng, trong đó có những thị trường yêu cầu cao về chất lượng, an toàn thực phẩm.
Điển hình, Mỹ tiếp tục công nhận tương đương và bổ sung 6 doanh nghiệp, nâng tổng số lên 19 doanh nghiệp được phép chế biến, xuất khẩu sản phẩm cá da trơn. EU công nhận bổ sung 14 doanh nghiệp, nâng tổng số lên 531 doanh nghiệp được xuất khẩu.
Các đơn vị chức năng đã tổng hợp trong tháng 8 được 58 thông báo dự thảo quy định về kiểm dịch động thực vật (SPS) của các nước thành viên thuộc Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); xử lý 2 cảnh báo của EU đồng thời, tiếp tục tháo gỡ vướng mắc liên quan các quy định tại Lệnh 248 và Lệnh 249 của Trung Quốc.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2022, ngành hoàn thành đàm phán mở cửa thị trường đối sản phẩm nhãn xuất khẩu đi Nhật Bản; tiếp tục đàm phán các sản phẩm chanh leo, dừa xuất khẩu đi Mỹ, bưởi xuất khẩu sang Hàn Quốc, chanh leo sang Australia, cây có múi đi New Zealand.
Cùng với đó, Bộ triển khai Nghị định thư về sầu riêng và hướng dẫn tạm thời đối với chanh leo xuất khẩu sang Trung Quốc; chuẩn hóa lại các quy định liên quan đến các loại quả tươi truyền thống xuất khẩu sang Trung Quốc.
Bộ tích cực triển khai chủ động có hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương; hướng dẫn người dân, doanh nghiệp thực hiện nghiêm việc đáp ứng các quy định về tem nhãn, truy xuất nguồn gốc, chỉ dẫn vùng trồng, kiểm nghiệm, kiểm dịch, quy cách đóng gói, chất lượng, chủng loại nông sản; đăng ký mã cơ sở đóng gói, mã số doanh nghiệp.
Các đơn vị chức năng chủ động chuẩn bị tốt các hồ sơ kỹ thuật, tích cực đàm phán để mở cửa thị trường cho nông sản xuất khẩu chính ngạch vào thị trường lớn và tiềm năng.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp chặt chẽ Bộ Ngoại giao, Bộ Công Thương, các địa phương tăng cường giới thiệu và quảng bá các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam; tiếp tục thu thập và cung cấp thông tin, thị hiếu, nhu cầu, cập nhật các chính sách, quy định cho cộng đồng doanh nghiệp, các địa phương./.
Ý kiến ()