tle=”Tìm “> Tạo hình cho sản phẩm gốm sứ ở làng nghề Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội) Hiện cả nước có 4.575 làng nghề, góp phần tạo việc làm cho hơn 11 triệu lao động nông thôn, trong đó có địa phương thu hút hơn 60% lao động. Nhiều nông dân đã giàu lên từ các làng nghề. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết các làng nghề đang lâm vào cảnh “thoái trào”, cần hướng đi mới để phát triển bền vững.
Làng nghề bỏ nghề
Làng nghề Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội) vốn nổi tiếng là phát triển tốt và thích ứng nhanh với cơ chế thị trường, kim ngạch xuất khẩu luôn dẫn đầu các làng nghề trong cả nước, nhưng hiện tại, lượng khách mua hàng cũng sụt giảm, nhiều đơn hàng bị cắt, lượng hàng tồn kho cao. Theo Hiệp hội gốm sứ Bát Tràng, nếu trước đây làng gốm sứ giải quyết việc làm cho khoảng 6.000 lao động thì giờ đây con số đó chỉ còn một nửa. Nổi tiếng không kém Bát Tràng là làng lụa Vạn Phúc (Hà Đông, Hà Nội). Với bề dày truyền thống gần 1.200 năm tuổi, lụa Vạn Phúc đẹp nổi tiếng và nức tiếng gần xa. Vào thời điểm “hoàng kim”, mỗi năm, Vạn Phúc đạt doanh thu hàng chục tỷ đồng và giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động địa phương và các nơi khác. Nhưng cùng với khủng hoảng kinh tế, sự vắng vẻ đã bao trùm lên làng lụa. Với hơn 150 cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm, làng lụa Vạn Phúc nay không còn duy trì được sự tấp nập bán, mua.
Cùng chung “số phận” với gốm sứ Bát Tràng và lụa Vạn Phúc là làng nghề mây tre đan xã Phú Túc, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội; làng nghề chạm khắc gỗ Đông Giao, xã Lương Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương; làng nghề gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ, Từ Sơn (Bắc Ninh)… ở các làng nghề này, cảnh đìu hiu vắng bóng khách tham quan, mua sắm là không khí bao trùm. Hệ quả là sản phẩm mây tre đan Phú Túc bị thu hẹp dần do sức ép của cơn bão khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng như sự cạnh tranh của nhiều mặt hàng gia dụng có sức bền cao như nhựa, gỗ, i-nốc… Dạo quanh làng nghề chạm khắc gỗ Đông Giao hỏi bất kể gia đình nào cũng đều nhận những lời than vãn về sự khó khăn mà người dân làng nghề này đang gặp phải. Anh Vi chủ cơ sở sản xuất đồ gỗ cao cấp mỹ nghệ Vi Thoa chia sẻ: Các sản phẩm của gia đình làm ra từ đầu năm đến nay bán rất chậm. Đã nhiều năm làm nghề, nhưng chưa năm nào khó khăn như năm nay. Lượng hàng bán ra giảm 50% so với năm 2011. Sản phẩm làm ra thì ế, xưởng phải hoạt động cầm chừng… Tại làng nghề gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ, hàng loạt các cơ sở sản xuất đang điêu đứng. Nhiều người ở làng nghề cho biết: Cách đây hai năm, hàng làm đến đâu bán hết đến đó. Các thương lái người Trung Quốc còn đến tận làng để xem xét mẫu mã, chất lượng sản phẩm rồi mua buôn về nước để tiêu thụ. Nay tình hình tài chính khó khăn cho nên họ không còn mặn mà với sản phẩm của làng nghề này nữa. Hàng không bán được, kéo theo hàng loạt “hệ lụy” là người dân thất nghiệp, thua lỗ, phá sản, không có khả năng trả nợ do vay quá nhiều vốn… Thậm chí nhiều người phải bỏ làng đi trốn nợ.
Chồng chất khó khăn
Từ năm 2006, Chỉnh phủ đã ban hành Nghị định số 66/2006/NĐ-CP về khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn, và Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề cũng được phê duyệt từ tháng 10-2011, nhưng theo Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Việt Nam Lưu Duy Dần thì đến nay các làng nghề vẫn đang phải đối mặt với khó khăn chồng chất.
Theo số liệu điều tra và báo cáo kiến nghị của nhiều địa phương, có 18/51 tỉnh, thành cho rằng đang có sự chồng chéo về quản lý ngành nghề nông thôn giữa các cơ quan nhà nước từ T.Ư đến địa phương. Một số nội dung quy định tại Nghị định 66 như quản lý chất lượng sản phẩm làng nghề, đào tạo nhân lực làng nghề chưa có hướng dẫn cụ thể của các Bộ, ngành có liên quan. Chưa có chính sách phát huy sự tham gia, liên kết giữa cơ sở sản xuất ngành nghề nông thôn với các nhà đầu tư và thị trường. Ngay như quản lý nhà nước về môi trường làng nghề theo quy định là Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện, nhưng lực lượng của phòng này khá mỏng cho nên việc quản lý môi trường làng nghề chưa được quan tâm đúng mức.
Trong khi đó, các chính sách về vốn tín dụng cho phát triển ngành nghề nông thôn, làng nghề theo quy định trong Nghị định 66/2006/NĐ-CP về khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn và các chính sách có liên quan còn nhiều vướng mắc, dẫn đến các hộ sản xuất, cơ sở sản xuất, doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn để đầu tư phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Anh Vi, chủ cơ sở sản xuất đồ gỗ cao cấp mỹ nghệ Vi Thoa cho biết: “Là doanh nghiệp được phép vay vốn tín dụng nhưng quá trình tiếp cận nguồn vốn cũng rất khó khăn. Để tiếp cận được nguồn vốn, chúng tôi phải qua các khâu trung gian, theo đó mất thêm mức lãi suất từ 3,5 đến 4%. Như thế, mức ưu đãi còn lại chẳng đáng là bao”. Chính vì vậy, theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, dư nợ cho vay phát triển ngành nghề nông thôn liên tục tăng trưởng, với tốc độ tăng bình quân khoảng 26%/năm, nhưng các hộ kinh doanh gần như không tiếp cận được do nhiều yếu tố khác nhau.
Ngoài ra, tại các làng nghề hiện nay đang thừa lao động phổ thông nhưng lại thiếu trầm trọng lao động có tay nghề cao. Một bộ phận lớp trẻ tại nhiều làng nghề đã không còn mặn mà với nghề cha truyền con nối. Trong khi đó, việc phát triển nguồn nhân lực tại các làng nghề như đào tạo nghề, truyền nghề, tư vấn sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực ngành nghề nông thôn… chưa được sự quan tâm đúng mức của chính quyền địa phương. Nguồn nhân lực tay nghề cao thiếu hụt đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng các sản phẩm. Phần lớn các sản phẩm truyền thống cần đến độ tinh xảo, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, thì nhiều làng nghề đã không đáp ứng được, dẫn đến mất dần thị trường truyền thống.
Bên cạnh đó, tình trạng sản xuất cầm chừng, xuất khẩu hàng hóa gặp khó khăn tại các làng nghề còn có nguyên nhân từ việc các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia và quốc tế chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Nhiều Hội chợ làng nghề trong nước cũng được tổ chức nhưng chỉ dừng lại ở mô hình các gian hàng trưng bày, khách hàng đến tham quan là chính, chưa có tác dụng kích thích tiêu dùng. Ngoài việc các sản phẩm làng nghề thường chậm đổi mới mẫu mã, thì chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp dường như vẫn chưa “đánh trúng” tâm lý của người tiêu dùng.
Giải pháp pháp triển
Để các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển ngành nghề nông thôn, làng nghề có hiệu quả cao hơn, tạo môi trường thuận lợi để các thành phần kinh tế tham gia phát triển sản xuất, thì quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngành nghề nông thôn cũng cần có điều chỉnh phù hợp. Cần sửa đổi, bổ sung Nghị định số 66/2006/NĐ-CP của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn, trong đó sửa đổi, làm rõ một số nhóm ngành nghề và bổ sung một số chính sách phù hợp với chủ trương, chính sách xây dựng nông thôn mới. Các chính sách tín dụng cho ngành nghề nông thôn cũng phải được xây dựng trên cơ sở phù hợp với thực tế sản xuất.
Theo Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Việt Nam Lưu Duy Dần, ngân hàng cần dành nguồn vốn cố định hằng năm để cho các thành phần kinh tế vay phát triển ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn. Theo đó, tăng vốn tín dụng ưu đãi, vốn chương trình kích cầu của Nhà nước cho các cơ sở ngành nghề nông thôn được vay vốn trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi nhằm đổi mới thiết bị, công nghệ, sản xuất mặt hàng mới, tăng cường xuất khẩu. Thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn và tạo nguồn ngân sách ổn định cho quỹ hoạt động một cách thường xuyên và có khả năng cung cấp đủ vốn cho các cơ sở ngành nghề nông thôn với các thủ tục cho vay đơn giản. Đây là công cụ chính sách quan trọng để đẩy mạnh phát triển ngành nghề nông thôn, làng nghề.
Một giải pháp quan trong khác là giải quyết mặt bằng cho sản xuất, kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp làng nghề, yêu cầu cấp bách nhất hiện nay là có đất đai làm mặt bằng sản xuất kinh doanh phù hợp với yêu cầu duy trì và mở rộng sản xuất. Tuy nhiên, việc thuê mặt bằng hiện nay không dễ. Vì vậy, cần có chính sách trợ giúp về sử dụng kết cấu hạ tầng và giải quyết môi trường cho doanh nghiệp để có thể thuê mặt bằng ở các khu, cụm công nghiệp đã có. Hoặc Nhà nước đầu tư xây dựng các khu, cụm công nghiệp cho làng nghề, trợ giúp và giảm nhẹ giá thuê để doanh nghiệp có thể thuê đất với giá thấp nhất.
Ngoài ra, theo Cục trưởng Cục chế biến, thương mại nông, lâm, thủy sản và nghề muối Đỗ Văn Nam thì các làng nghề hiện nay cũng cần đổi mới theo hướng tập trung phát triển gắn với các chương trình văn hóa xã hội và du lịch. Điển hình cho mô hình này là làng nghề Vạn Điểm, huyện Thường Tín, TP Hà Nội đã mở thêm điểm du lịch làng nghề. Mỗi năm có hàng chục đoàn du lịch đến đây thăm quan, góp phần thúc đẩy hoạt động mua bán sản phẩm. Đồng thời khuyến khích các hộ làm nghề, cơ sở sản xuất và các doanh nghiệp triển khai ứng dụng kết quả khoa học và công nghệ, đổi mới công nghệ, sản xuất sản phẩm mới và thực hiện các dịch vụ khoa học công nghệ hay tiếp nhận tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, hoàn thiện sản phẩm nghiên cứu có khả năng thương mại hóa thuộc lĩnh vực ngành nghề nông thôn. Song song với đó là vấn đề đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng, nâng cao tay nghề, đào tạo nghệ nhân trẻ, phát huy vốn quý của các nghệ nhân nhiều tuổi, hình thành nhiều lớp nghệ nhân trong làng nghề, qua đó tạo lực lượng kế thừa, lưu giữ được những tinh hoa truyền thống làng nghề.
Đã từ lâu, làng nghề luôn đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế địa phương và bảo đảm đời sống cho người lao động. Mức thu nhập từ sản xuất nghề cao hơn nhiều so với nguồn thu từ nông nghiệp. Thu nhập trung bình của người lao động đạt từ 450 nghìn đồng/tháng đến bốn triệu đồng/tháng (tùy theo từng loại ngành nghề), gấp 1,5 đến bốn lần so với lao động thuần nông. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, định hướng phát triển ngành nghề nông thôn giai đoạn 2012- 2020 là thực hiện quy hoạch phát triển ngành nghề, làng nghề phải gắn với yêu cầu bảo vệ môi trường, phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương. Phát triển ngành nghề nông thôn cần phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội, gắn với quy hoạch vùng nguyên liệu, hệ thống giao thông đầu mối. Đáng chú ý, cần đẩy mạnh thực hiện chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề phù hợp với chủ trương xây dựng nông thôn mới. Muốn làm được điều này, cần có sự hỗ trợ từ nhiều phía, từ T.Ư đến địa phương và các tổ chức Hiệp hội cũng như ý thức xây dựng làng nghề phát triển bền vững của mỗi hộ dân.
Theo Nhandan
Ý kiến ()