Thúc đẩy sự nghiệp giáo dục và đào tạo khu vực Tây Nguyên
Kể từ sau khi có Quyết định 25/2008/TTg của Thủ tướng Chính phủ Ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ ở tây nguyên, kinh tế – xã hội, giáo dục và đào tạo đã có những bước tiến đáng kể. Tuy nhiên, so với mặt bằng chung cả nước, giáo dục và đào tạo nơi đây vẫn còn là “vùng trũng”, với không ít những khó khăn.
Khắc phục những khó khăn
Những buôn làng heo hút, những lớp học tạm bằng tranh, tre, nứa lá, những xã còn 'trắng' trường mầm non và THCS… cùng tình trạng học sinh bỏ học khu vực Tây Nguyên cao hơn trung bình cả nước luôn luôn là nỗi lo thường trực với những ai quan tâm giáo dục và đào tạo (GD và ĐT) nơi đây.
Xã không trường,buôn không lớp
Tháng tư, khi Tây Nguyên vẫn đang ở thời kỳ cao điểm của mùa khô, những con đường ngoằn ngoèo, mấp mô ổ trâu, ổ gà dẫn đến các buôn làng huyện Krông Bông (Đác Lắc) lúc nào cũng bụi mù đất đỏ ba-zan. Chúng tôi tìm đến Trường tiểu học Cơ Pui 2, nơi có tới 51 lớp học ở bảy điểm trường khác nhau. Thầy giáo Trịnh Văn Huyên, Phó Hiệu trưởng của Trường dùng xe máy đưa chúng tôi đến với điểm bản E-dớt, với đoạn đường xa gần 30 cây số, gồ ghề qua hàng chục chiếc cầu bắc qua sông, suối và dốc 'cổng trời' cheo leo. Điểm trường E-dớt hiện lên với lá cờ Tổ quốc bay phấp phới giữa những lớp học tạm bợ bằng gỗ trống huếch, trống hoác. Cô giáo Trịnh Thị Phương giáo viên điểm bản tâm sự: Cả bản E-dớt có khoảng 200 hộ người Mông sinh sống. Năm 2001, đồng bào dựng tạm mấy phòng học rồi đề nghị chính quyền địa phương cử giáo viên vào giảng dạy. Mang tiếng là lớp học, chứ thật ra cả bốn phòng quây bằng gỗ ghép tạm nhìn thấu trời xanh. Hễ nắng thì oi bức, bụi mù đất đỏ ba-dan, mưa thì ướt dột bùn, đất ngập bàn chân. Thầy Trịnh Văn Huyên cho biết, không chỉ ở điểm trường E-dớt, toàn trường có 35 phòng học thì có tới 13 phòng học tạm bằng tranh, tre, nứa lá 'hoàn cảnh' y như điểm trường này.
Gần Trường tiểu học Cơ Pui 2, Trường THCS Cư Drăm được coi là khang trang hơn, với 12 phòng học vừa xây dựng kiên cố. Nhưng chưa có khu hiệu bộ, phòng thí nghiệm thực hành, phòng học bộ môn… Khi chúng tôi đến, thầy giáo Igôn – Mlô vừa kết thúc giờ dạy nhạc cho lớp 9A không giấu được băn khoăn: Dạy môn nhạc rất cần phòng học bộ môn nhưng hiện nay nhà trường vẫn phải xếp học cùng phòng với các môn văn hóa khác. Vì vậy, việc bảo đảm độ cao, tiết tấu, âm thanh… mang tính đặc thù môn học không đạt yêu cầu, cho nên giờ lên lớp khó có thể nói đạt kết quả như mong muốn.
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, tình trạng thiếu thốn cơ sở vật chất trải đều ở khắp các tỉnh khu vực Tây Nguyên nhất là ở những xã vùng sâu, vùng xa vùng kinh tế khó khăn. Các phòng học, phòng bộ môn, phòng chức năng, kho chứa thiết bị… vẫn thiếu ở nhiều trường phổ thông. Mạng lưới trường học mầm non chưa đáp ứng với yêu cầu huy động trẻ đến trường… Thậm chí ở tỉnh Đác Lắc, vẫn còn 300 buôn đồng bào dân tộc thiểu số chưa có nhà lớp học mầm non; mới có 44,7% số phòng học bậc mầm non, 72,5% số phòng học bậc phổ thông… được kiên cố hóa. Tỉnh Lâm Đồng có 64,6%; Gia Lai có 50,2% được kiên cố hóa… Tất cả đang là 'rào cản' đường tới trường của con em đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống nơi đây.
Học sinh bỏ học giảm nhưng chưa bền vững
Điều kiện kinh tế – xã hội kém phát triển, tình hình dân trí thấp cùng với tình trạng di cư tự do và những khó khăn về trường lớp học… khiến tình trạng học sinh bỏ học luôn hiện hữu ở Tây Nguyên. Chúng tôi đến Trường tiểu học Quang Trung, ở khu tái định cư của xã Đác Plao, huyện Đác Glong (Đác Nông) giữa giờ học. Tiếng đánh vần ngọng nghịu của học sinh vang xa. Ngôi trường vừa được hoàn thiện và đưa vào sử dụng từ đầu năm học 2010 – 2011 khang trang hơn trường cũ, nhưng từ đầu năm học tới nay cả trường vẫn còn 14 học sinh bỏ học. Thầy giáo Hà Hữu Phong, Hiệu trưởng nhà trường cho biết, do đặc thù dân trí, các bậc cha mẹ học sinh và học sinh không mấy quan tâm chuyện học hành của con em mình. Từ đầu năm học đến nay, nhà trường đã ba lần triệu tập họp cha mẹ học sinh thì có hai lần không thành công, cho nên sự phối hợp gia đình và nhà trường trong việc đưa học sinh tới lớp khó khăn gấp bội.
Tại lớp 1B, khi chúng tôi hỏi chuyện H'Mai, học sinh dân tộc Mạ thì chỉ nhận được cái lắc đầu và một vài từ phổ thông chưa rõ. Theo cô giáo Trần Thị Ngọc, nhiều lần học sinh này bỏ học cả tuần, cô giáo phải đến tận nhà vận động nhưng đến lớp rồi, khi cô giáo kiểm tra bài cũ hoặc hỏi bài thì ngay ngày hôm sau em lại nghỉ học. Ngồi cạnh là học sinh KĐen dù đã được cô giáo nỗ lực giúp em hòa nhập với lớp học nhưng hầu như em không tham gia vào quá trình học tập và đi học rất thất thường.
Nguyên nhân chính khiến học sinh bỏ học chủ yếu do hoàn cảnh gia đình khó khăn hoặc học sinh đã lớn tuổi và học lực kém nên ngại đi học. Tuy nhiên, cũng có học sinh phải đi học quá xa cũng có nguy cơ bỏ học. Theo thầy giáo Ngô Hữu Ba, Phó Hiệu trưởng Trường THCS Cư Drăm, học sinh người dân tộc thiểu số càng lên cao càng bỏ học nhiều, nhất là những học sinh ở xa trường, lớp học, đi lại khó khăn. Các thầy giáo, cô giáo đã nhiều nỗ lực đưa ra nhiều biện pháp vận động, khuyến khích, giúp đỡ các em nhưng tình trạng bỏ học vẫn không tránh khỏi. Học kỳ một năm 2010 – 2011, Trường THCS Cư Drăm vẫn còn 16 học sinh bỏ học.
Chung sức nâng cao chất lượng giáo dục
Tạo điều kiện thuận lợi để GD và ĐT các tỉnh Tây Nguyên bứt phá vươn lên, việc cần làm trước mắt là bảo đảm đầy đủ trường, lớp học, huy động cao nhất học sinh ra lớp học đầy đủ. Khắp các tỉnh Tây Nguyên đã có nhiều giải pháp khác nhau từ tổng thể của các cấp, các ngành đến những nỗ lực của từng thầy giáo, cô giáo với mục tiêu chung nâng cao chất lượng GD và ĐT nơi đây. Chánh Văn phòng Sở GD và ĐT Đác Nông Bùi Xuân Lễ cho biết, ngoài nguồn đầu tư của Nhà nước, công tác xã hội hóa giáo dục, thực hiện phong trào 'Nhà nước và nhân dân cùng làm', cần coi là một trong những giải pháp quan trọng nâng cao chất lượng cơ sở vật chất. Kinh nghiệm ở Đác Nông cho thấy, ngày càng có nhiều tấm gương điển hình trong nỗ lực góp phần cải thiện cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng giáo dục như: Hội phụ huynh huyện Cư Giút đã đóng góp 700 triệu đồng, hội phụ huynh huyện Đác R'Lấp góp 400 triệu đồng để tu bổ, xây dựng trường, lớp học. Ông Hồ Tiến Thoại và bà Đào Thị Đức ở huyện Đác R'lấp hiến đất xây dựng thêm hai phòng học cho Trường tiểu học Đăk Wer… đã góp phần tạo nên những trường, lớp học khang trang nâng bước các em tới trường.
Cùng với sự tự nguyện đóng góp của người dân thì ở nhiều nơi, những chương trình, dự án cũng tạo tiền đề giúp địa phương và các bậc cha mẹ học sinh cùng chung tay nâng cao chất lượng cơ sở vật chất trường, lớp học. Cô giáo Nguyễn Thị Hạnh, Hiệu trưởng Trường tiểu học Hoài Đức, huyện Lâm Hà (Lâm Đồng) chia sẻ kinh nghiệm: Năm 2007, điểm trường Quế Dương có phòng học còn tạm bợ được xét chọn đầu tư xây mới bốn phòng theo chương trình Dự án tiểu học cho trẻ em khó khăn. Từ vốn đầu tư của dự án đã tạo đà cho các nguồn lực xã hội hóa tham gia đóng góp gần 130 triệu đồng hoàn thiện hệ thống tường rào, cảnh quan trường xanh, sạch, đẹp…
Có trường, có lớp học thì vấn đề vận động học sinh đi học chuyên cần, khắc phục tình trạng học sinh bỏ học cũng không kém phần gian nan. Đến với Trường THCS Cư Đrăm (Krông Bông, Đác Lắc) nhắc đến chuyện vận động học sinh đi học chuyên cần, ai cũng nhắc đến Phó Hiệu trưởng Ngô Hữu Ba. Thấy học sinh Lê Thị Vân Thanh chăm chỉ học hành nhưng phải đi bộ quãng đường gần chục cây số, thầy bỏ tiền mua xe đạp tặng cho em làm phương tiện đến lớp. 'Chỉ tiếc rằng sau ba năm đi học, do hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, bố mắc bệnh hiểm nghèo vừa qua đời, cho nên em Thanh lại nghỉ học. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ tiếp tục nỗ lực để giúp em trở lại trường học tập với phương châm 'còn nước, còn tát' – thầy Ba tâm sự. Cùng với thầy Ba, thầy Lê Phước Hạnh cũng dùng tiền cá nhân để mua xe đạp tặng học sinh, giúp các em giảm bớt khó khăn đến trường. Việc làm của hai thầy giáo dù không lớn về vật chất nhưng đã thể hiện tình thương yêu học trò và góp phần quan trọng thúc đẩy tinh thần hăng say học tập, đến lớp chuyên cần của học sinh.
Còn tại Trường tiểu học Quang Trung, xã Đác Plao, huyện Đác GLong (Đác Nông), cô giáo Trần Thị Ngọc, giáo viên lớp 1B từng hơn một lần vượt gần 30 cây số đường núi non hiểm trở để tìm và vận động học sinh đến lớp. Cô Ngọc cho biết, có những hôm đến nơi, phụ huynh đều đi vắng, vì vậy cô phải trở đi, trở lại ba, bốn lần. Nhiều lần đi vận động học sinh tới lớp về mà lòng như lửa đốt. Không biết ngày mai các em có đến lớp như lời hứa khi cô tới nhà hay không'. Mỗi thầy giáo, cô giáo đều có một cách làm riêng dù giản đơn hay gian nan nhưng đều hướng đến mục tiêu giúp học sinh, nhất là học sinh vùng dân tộc thiểu số đến trường đầy đủ.
Phó Giám đốc Sở GD và ĐT Đác Nông Trương Anh thì khẳng định: Việc chú trọng đổi mới phương pháp giảng dạy và nâng cao kỷ cương – tình thương – trách nhiệm của các thầy giáo, cô giáo góp phần quan trọng duy trì học sinh đi học chuyên cần, nâng cao chất lượng dạy và học. Bên cạnh đó, cần tăng cường quan tâm các em học sinh nghèo, học sinh yếu kém và có sự phối hợp giữa nhà trường và chính quyền địa phương sẽ hạn chế tình trạng học sinh bỏ học.
Trao đổi ý kiến với một số chuyên gia giáo dục đều nhấn mạnh, do đặc thù người dân khu vực Tây Nguyên sinh sống phân tán và biến động thường xuyên, cho nên quá trình đầu tư cơ sở hạ tầng cần có sự linh hoạt chọn phương án xây dựng trường để đáp ứng nhu cầu cao nhất học tập nơi gần nhất của học sinh. Các cấp, các ngành cần tập trung quan tâm hơn nữa cho giáo dục vùng khó khăn, nhất là cho các trường vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Trong đó, hoàn chỉnh quy hoạch mạng lưới trường mầm non, phổ thông phù hợp đặc điểm ở từng vùng dân cư. Bên cạnh đó, ngành GD và ĐT cũng cần tích cực tham mưu với cấp ủy, chính quyền địa phương, thực hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục để tiếp tục tăng cường nguồn lực đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học nhằm xóa tình trạng phòng học tạm, phòng học nhờ, thiếu phòng thí nghiệm, thực hành, nhà hiệu bộ. Từ thực tiễn, các tỉnh khu vực Tây Nguyên cần tập trung chỉ đạo thực hiện Chương trình kiên cố hóa trường, lớp học và xây dựng nhà công vụ cho giáo viên, trong đó ưu tiên xây dựng nhà công vụ giáo viên vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Đáng chú ý, để nâng cao chất lượng giáo dục ở khu vực Tây Nguyên, các địa phương cần chỉ đạo các trường học tiến hành đồng bộ các giải pháp huy động mọi nguồn lực, động viên học sinh đến lớp. Tăng cường kết hợp giữa ngành GD và ĐT cùng các tổ chức, đoàn thể khác để thực hiện 'ba đủ' nhằm giúp các em có hoàn cảnh khó khăn đủ điều kiện tiếp tục theo học. Các trường học thực hiện khảo sát chất lượng, phân loại trình độ học sinh, lập danh sách những học sinh yếu kém có nguy cơ lưu ban, bỏ học từ đó xây dựng kế hoạch phụ đạo, tạo niềm tin cho các em không mặc cảm về bản thân. Với những nơi có học sinh bỏ học nhiều cần kịp thời chỉ đạo các giải pháp khả thi; hình thành tiêu chí thi đua đối với cán bộ quản lý, giáo viên trong việc khắc phục tình trạng học sinh yếu kém bỏ học. Có thể thực hiện việc tổ chức cho gia đình viết bản cam kết với nhà trường chăm lo các điều kiện học tập, động viên con em đến trường không bỏ học, đồng thời tổng kết nêu gương kịp thời những em đi học chuyên cần, xuất sắc trong học tập và các hoạt động khác nhằm động viên, khuyến khích phong trào học tập, góp phần thúc đẩy GD và ĐT các tỉnh khu vực Tây Nguyên bứt phá vươn lên.

Ý kiến ()