Thuận thiên để thịnh vượng và cất cánh
Từ 7h30 sáng 13/3, tại Cần Thơ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chủ trì Hội nghị lần thứ 3 về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chủ trì Hội nghị lần thứ 3 về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu. Ảnh: VGP/Quang Hiếu |
Đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chủ trì Hội nghị.
Mở đầu Hội nghị, tuyên bố lý do, giới thiệu các đại biểu, Phó Chủ nhiệm VPCP Trần Văn Sơncho biết: Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17 tháng 11 năm 2017 của Chính phủ về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, đề ra tầm nhìn tới năm 2100, mục tiêu tới năm 2050, định hướng phát triển thịnh vượng, an toàn, bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long – vùng đất anh hùng, giàu tiềm năng và có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội và quốc phòng an ninh của đất nước.
Nhằm đánh giá kết quả đạt được sau ba năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP; nhận diện các tồn tại, hạn chế, nguyên nhân; xác định rõ các nhiệm vụ ưu tiên, giải pháp và nguồn lực để đẩy mạnh triển khai thực hiện Nghị quyết một cách hiệu quả và thực chất trong thời gian tới, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo tổ chức Hội nghị lần thứ 3 về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và các đại biểu dự Hội nghị. Ảnh: VGP/Quang Hiếu |
Đồng chủ trì Hội nghị với Thủ tướng Chính phủ có các đồng chí: Đồng chí Trần Thanh Mẫn, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; đồng chí Nguyễn Văn Nên, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh; đồng chí Trương Hoà Bình, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ; đồng chí Trịnh Đình Dũng, Phó Thủ tướng Chính phủ.
Cùng dự có các đồng chí: Đồng chí Lê Hồng Anh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Thường trực Ban Bí thư; đồng chí Lê Minh Khái, Bí thư Trung ương Đảng, Tổng Thanh tra Chính phủ; đồng chí Trương Mỹ Hoa, nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Chủ tịch nước.
Cùng dự hội nghị có Các đồng chí Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng là lãnh đạo các Bộ, ngành Trung ương; lãnh đạo các Ban của Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội và các Uỷ ban của Quốc hội, Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam; Lãnh đạo các Bộ, cơ quan Trung ương, các đồng chí Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng là Bí thư của 13 Tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long cùng các đồng chí là Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Giám đốc các sở, ban ngành của các tỉnh.
Tham dự còn có lãnh đạo các cơ quan báo chí, các tổ chức đoàn thể chính trị – xã hội, Viện nghiên cứu, Trường đại học; một số Hiệp hội; các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành trong và ngoài nước, những chuyên gia tâm huyết, trách nhiệm, đã có nhiều năm nghiên cứu và đóng góp lớn cho sự phát triển của vùng đồng bằng sông Cửu Long.Về phía các vị khách quốc tế, có đại diện của các Đại sứ quán: Lào, Campuchia; Thái Lan; Nhật Bản; Hà Lan; Australia; Vương quốc Anh; Hoa Kỳ; Italy; bà Carolyn Tuck, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB); ông Fabrice RICHY Giám đốc Cơ quan Phát triển Pháp (AFD); đại diện của: Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức (GIZ), Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA)Việt Nam, Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN), Quỹ Quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF), Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW), Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM), Viện Nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI)…
Về phía các vị khách quốc tế, có đại diện của các Đại sứ quán: Lào, Campuchia; Thái Lan; Nhật Bản; Hà Lan; Australia; Vương quốc Anh; Hoa Kỳ; Italy; bà Carolyn Tuck, Giám đốc Quốc gia, Ngân hàng Thế giới (WB); ông Fabrice RICHY Giám đốc Cơ quan Phát triển Pháp (AFD); đại diện của: Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP), Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức (GIZ), Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA)Việt Nam, Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN), Quỹ Quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF), Ngân hàng tái thiết Đức (KfW), Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM), Viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI)…
Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình phát biểu khai mạc Hội nghị. Ảnh: VGP/Quang Hiếu |
Thiết lập nền tảng quan trọng cho ĐBSCL tiếp tục phát triển thịnh vượng
Phát biểu khai mạc Hội nghị, thay mặt Chính phủ, Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bìnhnhiệt liệt chào mừng các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước; lãnh đạo các Ban, Bộ, ngành, địa phương; đại diện các tổ chức quốc tế, Đại sứ quán, cơ quan ngoại giao các nước, đại diện các Viện nghiên cứu, Trường đại học, Hiệp hội, cộng đồng doanh nghiệp, các chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước tham dự Hội nghị lần thứ 3 của Chính phủ về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, ban hành nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp, chương trình và dự án cụ thể nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế, tạo động lực để thúc đẩy phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long. Chỉ tính từ năm 2017 đến nay, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 120 và ba lần tổ chức Hội nghị về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng biến đổi khí hậu. Việc ban hành Nghị quyết số 120 đã đánh dấu bước đột phá lớn trong tư duy, định hình chiến lược phát triển vì tương lai thịnh vượng, bền vững của Đồng bằng sông Cửu Long theo hướng tổng thể, tích hợp phát triển kinh tế – xã hội toàn vùng với tầm nhìn dài hạn, tăng cường kết nối phát triển giữa các địa phương trong vùng, bảo đảm tính liên vùng, liên ngành, có trọng tâm, trọng điểm thông qua cơ chế điều phối thống nhất.
Sau hơn ba năm triển khai thực hiện, với sự quan tâm của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương trong kiến tạo thúc đẩy, sự tích cực tham gia của doanh nghiệp cùng nỗ lực vươn lên mạnh mẽ của người dân vùng ĐBSCL và sự hỗ trợ hiệu quả của các đối tác quốc tế, chúng ta đã đạt được những kết quả rất tích cực, thiết lập những nền tảng quan trọng cho ĐBSCL tiếp tục phát triển thịnh vượng, cất cánh trong thời gian tới.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ghi nhận, đánh giá cao sự nỗ lực của các cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long và trân trọng cảm ơn sự hợp tác chặt chẽ, hỗ trợ, giúp đỡ hiệu quả, chia sẻ những kinh nghiệm quý báu từ các đối tác phát triển, các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện Nghị quyết còn nhiều hạn chế, khó khăn, chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra, cũng như sự kỳ vọng của chính quyền và nhân dân trong vùng.
Hội nghị lần này được tổ chức trong bối cảnh, đất nước ta bước vào năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ XIII, Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước năm 2021-2030, Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 2021-2025 với thế và lực mới. Đây là Hội nghị có ý nghĩa hết sức quan trọng, một lần nữa khẳng định quan điểm nhất quán và sự quan tâm sâu sắc của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đến sự phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long, đánh giá những việc đã làm được, đặc biệt những kết quả nổi bật trong nhiệm kỳ vừa qua, đặc biệt là sau 3 năm thực hiện Nghị quyết 120; thẳng thắn chỉ rõ những tồn tại, hạn chế, những bài học kinh nghiệm và đề xuất giải pháp cụ thể nhằm mục tiêu vì một Đồng bằng sông Cửu Long thịnh vượng, hiện đại, bền vững về môi trường, đậm đà bản sắc văn hóa truyền thống.
Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình: chúng ta đã đạt được những kết quả rất tích cực, thiết lập những nền tảng quan trọng cho ĐBSCL tiếp tục phát triển thịnh vượng, cất cánh trong thời gian tới. Ảnh: VGP/Quang Hiếu |
Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình đề nghị lãnh đạo một số các bộ, ngành, địa phương trình bày, ngắn gọn các báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết 120 trên các lĩnh vực, tập trung làm rõ một số nội dung.
Một là, đánh giá kết quả thực hiện những nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết 120, và nêu lên những tồn tại, hạn chế.
Hai là, xác định những giải pháp tháo gỡ cụ thể để đẩy mạnh triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết, gồm: Chiến lược quy hoạch, dự án, trình cần triển khai đầu tư trong thời gian đó; các giải pháp về cơ chế chính sách, khoa học và cộng nghệ; sự tham gia và định hướng hỗ trợ thực hiện Nghị quyết 120 của các đối tác phát triển; đề xuất, xác định định hướng giải pháp về quy hoạch liên kết vùng và thúc đẩy phát triển kinh tế giữa vùng ĐBSCL với Thành phố Hồ Chí Minh và vùng Đông Nam Bộ.
“Chính phủ mong rằng, Hội nghị quan trọng này sẽ tiếp tục thúc đẩy hành động của các cấp, các ngành, các địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và người dân vùng ĐBSCL cùng với sự hỗ trợ, hợp tác của cộng đồng quốc tế để các nhiệm vụ, giải pháp đã nêu trong Nghị quyết và Chương trình hành động tổng thể được triển khai hiệu quả, nhằm phát triển bền vững và thịnh vượng cho vùng đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian tới”, Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình nhấn mạnh và tuyên bố khai mạc Hội nghị lần thứ 3 của Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2021 về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường: Nghị quyết 120 đã giúp khăc phục khó khăn, biến nguy thành cơ. Ảnh: VGP/Quang Hiếu |
Chuyển hướng thuận thiên đúng hướng, hiệu quả
Báo cáo về tình hình thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cho biết, theo nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ưu tiên tập trung tổ chức triển khai 4 lĩnh vực then chốt: Xây dựng Chương trình tổng thể phát triển nông nghiệp bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu gắn với xây dựng nông thôn mới vùng ĐBSCL; Phát triển thủy lợi vùng ĐBSCL; Phòng, chống xói lở bờ sông, bờ biển, phòng chống thiên tai; Nghiên cứu, chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi thủy sản thích ứng với biến đổi khí hậu của vùng.
Bộ đã phối hợp với 13 tỉnh thành ĐBSCL xây dựng xong các đề án, chương trình cho các lĩnh vực này, được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn, đang tập trung thực hiện.
Ngoài các nội dung trong Báo cáo, Bộ trưởng phân tích thêm một số các yếu tố thực tế mà ĐBSCL phải đối mặt. Từ đó, Nghị quyết 120 nêu rõ tinh thần thuận thiên để tổ chức đời sống và sản xuất; biến nguy thành cơ cho phát triển, tập trung các nguồn lực từ phía Nhà nước, doanh nghiệp, người dân.
Bộ trưởng khẳng định, cơ cấu nông nghiệp đã chuyển dịch tích cực, nếu trước kia chúng ta xác định các sản phẩm trụ cột của ĐBSCL gồm “lúa gạo, thủy sản, trái cây” thì vừa qua để thích ứng với BĐKH, chúng ta phải khai thác thế mạnh theo ưu tiên “thủy sản, trái cây, lúa gạo”.
Trước Nghị quyết 120, trong 3,2 triệu ha đất nông nghiệp của vùng, có 1,82 triệu ha đất lúa, 860 nghìn ha thủy sản, 385 nghìn ha cây ăn trái. Sau Nghị quyết, diện tích trồng trái cây tăng lên 450 nghìn ha, thủy sản đã lên trên 900 nghìn ha, diện tích lúa giảm còn 1,7 triệu ha, diện tích lúa 3 vụ cũng giảm.
Bộ trưởng nhắc tới con số, năm 2016, xuất khẩu nông sản của toàn vùng đạt 7 tỷ USD, nhưng năm 2020 đã là 8,8 tỷ USD, cho thấy việc chuyển hướng thuận thiên không những đúng hướng mà còn hiệu quả. Cấp hộ, cấp doanh nghiệp chuyển động, 13 tỉnh thành chỉ đạo rất quyết liệt.
Cũng theo Bộ trưởng, Nghị quyết 120 ban hành trong bối cảnh cực kỳ khó khăn về nguồn lực nhưng Chính phủ đã tập trung cao độ, như bố trí 10 nghìn tỷ đồng để xử lý 119km bờ biển và một số khu vực ven sông, một số công nghệ mới nhất được đưa vào sử dụng.
Về thủy lợi, đã kết hợp giữa giải pháp cứng và mềm, chỗ nào đủ ngọt thì trồng lúa, vùng nước lợ mặn thì nuôi trồng thủy sản trên cơ sở hệ thống thủy lợi được chăm lo. Với 28 nghìn tỷ đồng đầu tư cho thủy lợi trong vùng, hàng loạt công trình lớn chỉ trong 3 năm qua đã được đưa vào sử dụng, 300 nghìn ha đất nông nghiệp được chủ động nguồn nước từ các công trình này, chưa kể một loạt các công trình của địa phương.
“Chính phủ, Thường trực Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cực kỳ quyết liệt, chưa có bao giờ bước vào mùa khô mà Thủ tướng Chính phủ trực tiếp chỉ đạo xử lý như nhiệm kỳ này. Đặc biệt, 13 tỉnh, bà con nông dân và cộng đồng doanh nghiệp đã tham gia hiệu quả vào Nghị quyết”, Bộ trưởng nói.
Tuy nhiên, thách thức tới đây sẽ còn gian nan hơn. Bộ trưởng kiến nghị sắp tới, cần cả hệ thống chính trị tập trung thực hiện các nhiệm vụ cho đồng bằng. Ngành nông nghiệp sẽ tiếp tục thực hiện Nghị quyết 120 một cách hiệu quả.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng: Tiếp tục ưu tiên đầu tư cho vùng ĐBSCL. Ảnh: VGP/Quang Hiếu |
Huy động thêm hàng trăm nghìn tỷ đồng cho ĐBSCL
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đánh giá ĐBSCL giữ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, không chỉ là trụ đỡ, bảo đảm an toàn, an ninh lương thực, xuất khẩu nông sản, mà còn là vùng một động lực, nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua ĐBSCL đang phải đối diện với nhiều nguy cơ và thách thức của biến đổi khí hậu, các hoạt động phát triển của thượng nguồn, mặt trái từ phát triển kinh tế xã hội chưa bền vững, khai thác sử dụng tài nguyên với cường độ cao, gây ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái nghiêm trọng, tỷ lệ di dân tự do tăng cao,..
Để giải quyết vấn đề nêu trên, nhằm tạo điều kiện cho ĐBSCL phát triển nhanh và bền vững, Chính phủ đã kịp thời ban hành Nghị quyết số 120. Đây là một nghị quyết hết sức quan trọng và có ý nghĩa cho sự phát triển của Vùng. Tại Nghị quyết số 120 của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao thực hiện 3 nhiệm vụ.
Về xây dựng Hội đồng vùng và cơ chế điều phối vùng, trên cơ sở kiến nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 825 ngày 12/6/2020 về thành lập và Quy chế hoạt động của Hội đồng điều phối vùng ĐBSCL giai đoạn 2020-2025 để xem xét, quyết định các vấn đề lớn của Vùng, với Chủ tịch Vùng là một Phó thủ tướng, một số Bộ trưởng là phó chủ tịch và 13 chủ tịch các tỉnh trong vùng là thành viên. Hội đồng Vùng có chức năng chính là đưa ra được những giải pháp mang tính chiến lược, giải quyết được các thách thức của Vùng để giúp vùng ĐBSCL phát triển bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu và người dân trong Vùng có cuộc sống hạnh phúc, thịnh vượng. Hội đồng điều phối vùng ĐBSCL đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tổ chức triển khai quy hoạch vùng sau khi được phê duyệt, bảo đảm tính hiệu quả trong công tác điều phối, liên kết, giải quyết các vấn đề có tính liên ngành, liên tỉnh.
Trong thời gian tới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ kiến nghị Chủ tịch hội đồng Vùng tổ chức họp Hội đồng Vùng để cụ thể hóa việc triển khai thực hiện quy hoạch vùng, việc sử dụng nguồn lực, phân bổ nguồn lực, xây dựng danh mục dự án có tính lan tỏa, động lực, các dự án đường ven biển của Vùng.
Về công tác quy hoạch,Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các bộ, cơ quan trung ương, 13 địa phương vùng ĐBSCL, Ngân hàng thế giới và đơn vị tư vấn nước ngoài tổ chức nhiều hoạt động lấy kiến rộng rãi, nhất là ý kiến các chuyên gia trong và ngoài nước am hiểu vùng ĐBSCL. Trên cơ sở tiếp thu các ý kiến góp ý có tính định hướng và xác đáng đối với quy hoạch Vùng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã hoàn thiện báo cáo quy hoạch, báo cáo đánh giá môi trường chiến lược và các tài liệu liên quan khác. Bản quy hoạch đã thể hiện nhiều đổi mới mang tính đột phá tầm chiến lược về định hướng, tư duy phát triển bền vững, liên ngành, liên vùng, thích ứng với biến đổi khí hậu, bám sát các quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết số 120.
Thứ nhất, quan điểm lập quy hoạch lấy yếu tố “con người” làm trung tâm để phát triển Vùng ĐBSCL thành “Nơi sống tốt” khi nhìn từ bên trong vùng và “Nơi đáng đến” khi nhìn từ ngoài vùng; lấy “thích ứng” với biến đổi khí hậu là yêu cầu tất yếu; coi tài nguyên nước là yếu tố cốt lõi; đa dạng về văn hoá cũng như hoạt động kinh tế ,không để ai bị bỏ lại trong quá trình phát triển.
Thứ hai,Quy hoạch định hướng phân vùng sinh thái nông nghiệp và xác định ranh giới ngọt – mặn – lợ theo hướng thuận thiên có kiểm soát, để chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp hài hoà với điều kiện tự nhiên môi trường, phù hợp với từng tiểu vùng sinh thái nông nghiệp nhằm tăng tối đa giá trị và hiệu quả kinh tế nông nghiệp.
Thứ ba, phát triển vùng thành trung tâm kinh tế nông nghiệp bền vững, năng động và hiệu quả cao trên cơ sở phát triển hệ thống 8 trung tâm đầu mối về nông nghiệp và các hành lang kinh tế để nâng cao giá trị, hiệu quả của từng khâu trong chuỗi giá trị nông nghiệp.
Thứ tư, tập trung phát triển công nghiệp theo hướng bền vững, thân thiện môi trường, trong đó công nghiệp chế biến là ngành mũi nhọn; phát triển dịch vụ đa dạng, ứng dụng công nghệ cao với hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, thích ứng với biến đổi khí hậu và tăng cường kết nối nội, ngoại vùng. Xây dựng hệ thống đô thị thông minh, phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng, gắn kết hợp với các trung tầm đầu mối về nông nghiệp.
Thứ năm,tập trung nguồn đầu tư phát triển hạ tầng để đi trước một bước, nhằm tạo nền tảng cho sự phát tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững của vùng. Ưu tiên phát triển hạ tầng có ý nghĩa quan trọng cấp quốc gia, cấp vùng như giao thông, năng lượng, và kết cấu hạ tầng phục vụ việc chuyển đổi mô hình phát triển của Vùng.
Thứ sáu, cải thiện hạ tầng cấp nước theo hướng coi nước mặn, nước lợ là một nguồn tài nguyên bên cạnh nước ngọt, với trọng tâm là khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi xâm nhập mặn và hạn hán; lấy nước mặt từ vùng nước mặt ngọt vĩnh viễn; giảm dần và tiến tới dừng sử dụng nước ngầm để làm chậm tốc độ sụt lún đất; tăng cường nguồn trữ nước ngọt để cung cấp đến các khu vực thiếu nước phục vụ tốt nhất cho sản xuất và sinh hoạt.
Thứ bảy, thay đổi mô hình tăng trưởng theo hướng gia tăng hiệu quả và giá trị; năng lượng tái tạo, kinh tế số, đổi mới sáng tạo, trí tuệ nhân tạo, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn… là tương lai của ĐBSCL. Thay thế dần các nhà máy nhiệt điện than bằng các nhà máy điện sử dụng khí thiên nhiên/LNG và năng lượng tái tạo (mặt trời, gió…), trong đó, chú trọng quy trình xử lý chất thải vùng với lượng chất thải thu gom từ nhiều tỉnh để đạt được quy mô hiệu quả và áp dụng phương pháp đốt rác thanh năng lượng một cách hiệu quả và thân thiện với môi trường.
Thứ tám,khoanh vùng quản lý, bảo tồn và khai thác hợp lý những di sản văn hóa, tín ngưỡng quan trọng và chú trọng bảo tồn hệ sinh thái và môi trường. Tái tạo hệ thống rừng ngập mặn.
Đến nay, Báo cáo Quy hoạch vùng đang ở bước cuối trình Hội đồng thẩm định thông qua. Cùng với quy hoạch vùng, toàn bộ 13/13 địa phương trong vùng đang khẩn trương triển khai lập quy hoạch tỉnh nhằm cụ thể hóa quy hoạch vùng trong bối cảnh tổng thể, liên kết, đồng bộ, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Theo kế hoạch đã được phê duyệt, dự kiến đến hết năm 2022, toàn bộ địa phương trong vùng sẽ hoàn thành việc lập, thẩm định, phê duyệt, công bố quy hoạch tỉnh.
Về huy động nguồn lực, Để tiếp tục ưu tiên đầu tư cho vùng ĐBSCL, trên cơ sở kiến nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 973 ngày 08/7/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 26 ngày 14/09/2020 về các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025, trong đó quy định các tiêu chí tính điểm của Vùng ưu tiên cao hơn các Vùng khác trong cả nước.
Trong giai đoạn 2021-2025, tổng số vốn ngân sách nhà nước dự kiến hỗ trợ cho các dự án trên địa bàn do địa phương quản lý dự kiến đạt khoảng 266 nghìn tỷ đồng, tăng 20% so với giai đoạn 2016-2020, trong đó: nguồn vốn cân đối ngân sách địa phương là khoảng 162 nghìn tỷ đồng, nguồn vốn ngân sách trung ương là khoảng 82 nghìn tỷ đồng; nguồn vốn nước ngoài (ODA) là 22 nghìn tỷ đồng. Ngoài ra, vốn ngân sách nhà nước đầu tư qua một số Bộ như Giao thông vận tải, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Y tế… để triển khai các công trình dự án trong Vùng đạt khoảng 121,6 nghìn tỷ đồng. Tổng số vốn NSNN đầu tư dự kiến giai đoạn 2021-2025 của Vùng khoảng 388 nghìn tỷ đồng. Với số vốn được bố trí như trên, sẽ hoàn thành một số công trình trọng điểm của vùng như: thông tuyến cao tốc Trung Lương – Mỹ Thuận – Cần Thơ, Cần Thơ – Cà Mau; các tuyến đường giao thông có tính chất liên kết vùng và một số tuyến quốc lộ trong vùng như: QL 30, 53, 57; đường băng số 2, sân bay Phú Quốc; Cầu Rạch Miễu 2; Cầu Mỹ Thuận 2; cầu Đại Ngãi, tuyến Mỹ An – Cao Lãnh, tuyến An Hữu – Cao Lãnh; tuyến Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng; Kênh Chợ Gạo giai đoạn 2; hoàn thiện hệ thống thủy lợi Tứ giác Long Xuyên; Nâng cấp, cải tạo kênh Hồng Ngự – Vĩnh Hưng; Kết nối và hoàn thiện các hệ thống thủy lợi Bảo Định, Gò Công, Tân Trụ; Kè bảo vệ và chống sạt lở luồng Sông Hậu; các công trình chuyển nước cho bán đảo Cà Mau; Các công trình trữ nước, chống xâm nhập mặn,…
Riêng đối với nguồn vốn ODA, để bổ sung tăng thêm 2 tỷ USD trong giai đoạn 2021 – 2025 cho vùng ĐBSCL theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại chỉ thị 23/CT-TTg, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với Ngân hàng Thế giới nghiên cứu, xây dựng Báo cáo đề xuất khoản hỗ trợ ngân sách có mục tiêu phát triển bền vững vùng ĐBSCL, quy mô dự kiến 1,05 tỷ USD. Với quy mô vốn như vậy, sẽ hoàn thành được các công trình: đường ven biển đối với các tỉnh có biển từ Tiền Giang đến Kiên Giang; hồ trữ nước ngọt gắn với hạ tầng thủy lợi phục vụ liên kết sản xuất vùng tứ giác Long Xuyên, một số công trình giao thông liên tỉnh có tính lan tỏa, động lực,… Tuy nhiên, số vốn trên mới đáp ứng khoảng 50% nhu cầu của các địa phương, chưa thể kết nối liên tục các tuyến ven biển, còn nhiều nơi như Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau vẫn phải đi phà hoặc vòng sang cầu hiện hữu đã quá tải.
Do đó, để có thêm nguồn lực ngoài khoản vay của Ngân hàng Thế giới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã làm việc và nhận được nhiều đề xuất cung cấp khoản vay ưu đãi và viện trợ không hoàn lại của các đối tác phát triển như: Cơ quan phát triển Pháp (AFD), Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW) và Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sĩ (SECO). Các đối tác này sẽ cam kết thêm một khoản tài trợ là 480 triệu USD ngoài khoản 1,05 tỷ USD mà Ngân hàng Thế giới đã cam kết nêu trên. Do đó, tổng số vốn mà các đối tác cam kết là 1,53 tỷ USD để hỗ trợ thêm cho vùng ĐBSCL giai đoạn 2021-2025 nhằm hoàn thiện và khép nối tối đa tuyến đường giao thông, đường ven biển, các cầu của tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Cà Mau.
Hiện nay, Hồ sơ đề xuất khoản hỗ trợ ngân sách có mục tiêu cho vùng ĐBSCL đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoàn thiện và đã nhận được sự đồng thuận của các Bộ và 13 tỉnh trong vùng. Tuy nhiên, việc trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định chủ trương tiếp nhận khoản hỗ trợ ngân sách nêu trên còn gặp một số vướng mắc, do chưa nhận được ý kiến đồng thuận của Bộ Tài chính. Theo ý kiến của Bộ Tài chính, các dự án tại các địa phương sử dụng vốn vay tại khoản hỗ trợ ngân sách trên thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương, nên không thể cấp phát 100% vốn vay, mà địa phương phải vay lại theo Nghị định số 97 về cho vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận thấy, các địa phương vùng ĐBSCL đa phần là các địa phương khó khăn, ít có khả năng vay lại, các dự án dự kiến triển khai là các dự án hạ tầng thiết yếu, đặc biệt quan trọng, nhưng không có khả năng thu hồi vốn, nên không thể áp dụng cơ chế tại Nghị định số 97 của Chính phủ. Như vậy, cần một cơ chế đặc thù, vượt trội cho nguồn vốn này để thực hiện được mục tiêu như kết luận tại các cuộc họp trước đây của Thủ tướng Chính phủ với vùng ĐBSCL. Nếu thực hiện theo hình thức dự án mà Bộ Tài chính khuyến nghị thì vùng ĐBSCL sẽ không thể triển khai được khoản hỗ trợ này.
Ngoài ra, trong thời gian tới đây, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tích cực làm việc với các nhà tài trợ, nhất là các nhà tài trợ đang hiện diện tại Hội nghị này để huy động đủ số vốn 2 tỷ USD mà Chính phủ đã cam kết bổ sung thêm cho vùng ĐBSCL.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, sau 3 năm thực hiện Nghị quyết số 120 của Chính phủ, chúng ta đã đạt được một số kết quả quan trọng, nhưng mục tiêu và nhiệm vụ tiếp theo vẫn còn rất thách thức, đòi hỏi sự đồng thuận và quyết tâm cao của các bộ, ngành, địa phương, sự chỉ đạo quyết liệt và những quyết định chính xác, kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng kiến nghị một số nội dung có ý nghĩa rất quan trọng đối với vùng ĐBSCL.
Một là , về nguồn vốn ODA, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, đồng ý tiếp nhận 2,0 tỷ USDhỗ trợ thêm cho vùng ĐBSCL giai đoạn 2021-2025, tăng thêm 950 triệu USD ngoài khoản 1,05 tỷ USD mà Ngân hàng Thế giới đã cam kết, theo cơ chế đặc thù, vượt trội và thực hiện cơ chế cấp phát 100% cho các địa phương trong vùng để hoàn thiện khép kín toàn bộ tuyến đường ven biển, hoàn thành các cầu lớn kết nối các địa phương trong vùng, các dự án thuỷ lợi liên kết vùng, có tính lan toả, tập trung phòng chống hạn hán, xâm nhập mặn và thích ứng với biến đổi khí hậu và một số trục giao thông động lực của Vùng.
Hai là , về công tác quy hoạch, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ giao Chủ tịch Hội đồng thẩm định quy hoạch vùng xem xét, sớm tổ chức thẩm định Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 trong tháng 4/2021, làm cơ sở cho việc lập quy hoạch tỉnh, quy hoạch đô thị, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch nông thôn, quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành trên địa bàn vùng.
Ba là , về phân bổ nguồn lực, các địa phương cần ưu tiên nguồn lực và bố trí nguồn vốn đối ứng để triển khai các dự án có tính chất kết nối liên vùng, liên tỉnh, có tác động lan tỏa; mở rộng không gian phát triển, tạo quỹ đất cho sản xuất kinh doanh, kết nối tuyến giao thông hành lang ven biển; ưu tiên cho các dự án giao thông đường ven biển, nhằm kết nối khép kín tối đa tuyến đường ven biển của vùng ĐBSCL.
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà báo cáo tổng hợp 3 năm thực hiện Nghị quyết 120. Ảnh: VGP/Quang Hiếu |
Mức tăng trưởng ấn tượng sau khi có nghị quyết thuận thiên
Báo cáo tổng hợp 3 năm thực hiện Nghị quyết, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hànêu rõ: Qua hơn 3 năm triển khai thực hiện Nghị quyết, phát triển thuận thiên đã được thấm nhuần trong nhận thức, tư duy và hành động của các cấp, ngành, địa phương, được các chuyên gia, nhà khoa học, người dân và doanh nghiệp tích cực hưởng ứng, các đối tác quốc tế ủng hộ, hỗ trợ hiệu quả. Dù thời gian thực hiện chưa dài nhưng chúng ta đã đạt được một số kết quả rất quan trọng, thiết lập được những nền tảng để ĐBSCL tiếp tục phát triển thịnh vượng, nổi bật là:
Một là, kiến tạo thể chế, chính sách thúc đẩy phát triển bền vững theo một tổng thể thống nhất, tạo sức mạnh tổng hợp
Cơ chế chính sách được xây dựng, bổ sung hoàn thiện, trong đó ưu tiên một số lĩnh vực theo thế mạnh của vùng. Các nút thắt trong chính sách đất đai, đầu tư được tháo gỡ, liên kết được tăng cường để tạo chỗ đứng cho các sản phẩm trên thị trường thế giới.
Nhiệm vụ lập Quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050; Quy hoạch xây dựng; Chương trình tổng thể phát triển nông nghiệp bền vững thích ứng với BĐKH… được phê duyệt và tổ chức triển khai thực hiện.
Nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi được ban hành, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư chuyển đổi quy mô lớn, tái cơ cấu nông nghiệp, ứng dụng công nghệ cao; phát triển giao thông, năng lượng tái tạo…
Hai là, chủ động thích ứng nhờ nâng cao năng lực quan trắc, giám sát, dự báo thời tiết, cảnh báo thiên tai; chuyển đổi sản xuất, kinh doanh dựa vào các lợi thế tự nhiên lấy con người làm trung tâm
Công tác điều tra, khảo sát, cảnh báo, dự báo về môi trường, khí hậu được tăng cường theo chủ trương nương theo quy luật tự nhiên, thể hiện đậm nét ở những mặt sau đây:
Mạng lưới quan trắc, giám sát khí hậu, thời tiết được tăng cường, chất lượng dự báo khí tượng thủy văn, cảnh báo sớm thiên tai được nâng cao phục vụ thực hiện các giải pháp thích ứng, trong đó đã chú trọng các giải pháp phi công trình như: tích nước, chuyển đổi thời vụ canh tác, cơ cấu lại cây trồng-vật nuôi… Nhờ đó đã hạn chế được tối đa tác động xấu ảnh hưởng đến sinh hoạt và sản xuất. [Riêng đợt hạn mặn 2019-2020, nhờ chủ động dự báo chính xác, kịp thời chuyển đổi cơ cấu sản xuất nên mặc dù mức độ khắc nghiệt và diện rộng hơn đợt hạn mặn lịch sử năm 2015-2016 nhưng đã giảm được 90% diện tích lúa bị ảnh hưởng, người dân được mùa, gạo được giá].
Chuyển đổi kinh tế được đẩy mạnh nương theo thế mạnh tự nhiên; hình thành mạng lưới sản xuất thông minh, tập trung quy mô lớn, chuyên canh gắn với chế biến, tiêu thụ theo chuỗi giá trị, tạo ra các thương hiệu nổi tiếng thế giới như gạo ST25.
Công nghiệp tập trung phát triển công nghiệp chế biến, công nghiệp xanh, ít phát thải, năng lượng tái tạo. Xúc tiến thương mại được đổi mới, đáp ứng được diễn biến của thị trường trong nước và quốc tế, góp phần thúc đẩy thương hiệu, ngành hàng tại các thị trường xuất khẩu.
Các lợi thế sinh thái, văn hóa, lịch sử được bảo tồn, phát huy, thúc đẩy kinh tế du lịch, dịch vụ. Chỉ riêng năm 2019, khách du lịch ước đạt 47 triệu lượt, khách lưu trú ước đạt 13,5 triệu lượt, thu đạt hàng chục nghìn tỷ đồng.
Ba là, định hình không gian phát triển, quy hoạch hạ tầng kết nối nội vùng, với thành phố Hồ Chí Minh và Đông Nam Bộ được đẩy mạnh.
Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo đầu tư thực hiện nhiều dự án, công trình giao thông trọng điểm với tổng mức đầu tư khoảng 89 nghìn tỷ đồng, trong đó 14 dự án đã hoàn thành, 14 dự án đang triển khai, 03 dự án đang chuẩn bị triển khai.
Nhiều dự án thủy lợi, đê ngăn mặn, kiểm soát triều cường, sóng cao, hạ tầng thủy sản, cảng cá, khu neo đậu; các cụm, tuyến dân cư, xử lý rác thải, nước thải sinh hoạt và cải tạo cảnh quan được quan tâm đầu tư đảm bảo người dân được sống an toàn, ổn định. Công trình Cống Cái Bé, theo đánh giá của chuyên gia, đã bước đầu kiểm soát mặn cho khoảng 20 nghìn ha đất nông nghiệp của tỉnh Kiên Giang, giảm chi phí xây dựng khoảng 120 đập tạm sau cống vừa cải thiện môi trường, không ảnh hưởng giao thông thuỷ và ứ đọng nước.
Hội đồng Điều phối vùng được thành lập, giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, điều phối, kiểm tra, giám sát việc thực hiện liên kết vùng, tháo gỡ được những rào cản và giải phóng hiệu quả nguồn lực đầu tư.
Bốn là, khơi thông, thúc đẩy nguồn lực đầu tư công làm hạt nhân, dẫn dắt đầu tư của khối doanh nghiệp và cộng đồng quốc tế
Vốn đầu tư được chỉ đạo, ưu tiên bố trí cho các dự án có tính hạt nhân, đa mục tiêu giải quyết các vấn đề cấp bách về dân sinh.
Tổng số vốn ngân sách nhà nước đầu tư qua địa phương đạt khoảng 220 nghìn tỷ đồng chiếm khoảng 16% so với cả nước, trong đó ngân sách Trung ương hỗ trợ có mục tiêu là 80 nghìn tỷ. Trung ương cũng đã bổ sung ngoài kế hoạch trung hạn 2,5 nghìn tỷ để xử lý các điểm sạt lở cấp bách nguy hiểm.
Nguồn vốn cân đối ngân sách địa phương đạt 114 nghìn tỷ. Nguồn vốn ODA đạt 22 nghìn tỷ. Thu hút FDI đạt trên 14 tỷ USD.
Nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi được ban hành, khuyến khích thu hút đầu tư.
Năm là, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, truyền thông nâng cao nhận thức, đào tạo, chuyển đổi ngành nghề, tăng cường hợp tác quốc tế.
Về tổng thể, sau hơn 03 năm triển khai thực hiện Nghị quyết, có thể khẳng định vùng ĐBSCL đã chuyển mình mạnh mẽ với những tiến bộ trong cả tư duy lẫn hành động, chuyển từ bị động sang chủ động thích ứng với tác động của BĐKH, coi lũ, nước mặn, nước lợ là tài nguyên để phát triển kinh tế; sinh kế, đời sống của nhân dân được từng bước cải thiện; bức tranh phát triển ĐBSCL ngày càng được điểm tô bằng nhiều gam màu tươi sáng.
Hiệu quả của việc phân vùng, chuyển đổi sản xuất theo phương châm thuận thiên đã từng bước được chứng minh. Tăng trưởng GDP luôn ở mức cao trước khi xảy ra đại dịch Covid-19 [trong hai năm liên tục 2018 và 2019 đều đạt mức tăng trưởng ấn tượng khoảng 7,3%].
Đời sống văn hóa, tinh thần từng bước được nâng cao; các giá trị văn hóa truyền thống của vùng từng bước được bảo tồn, phát huy, khai thác hiệu quả phục vụ người dân và du khách quốc tế.
Các loại bệnh dịch được giám sát, khống chế và có xu hướng giảm; tỷ lệ hộ gia đình nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh tăng qua từng năm.
Kết quả của Nghị quyết một lần nữa khẳng định tầm nhìn chiến lược của Đảng, Nhà nước, phù hợp với bối cảnh và xu thế phát triển trong nước, quốc tế, khẳng định mạnh mẽ quyết tâm chính trị của Chính phủ về ứng phó với BĐKH toàn cầu trên cơ sở kết hợp giữa sáng tạo, tri thức bản địa với khoa học và công nghệ; sự vươn lên mạnh mẽ và khát vọng phát triển của người dân.
Nói về những thách thức lớn mà ĐBSCL đang phải đối mặt, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết BĐKH, thiên tai đang ngày càng diễn ra nhanh, phức tạp và sẽ tiếp tục khó lường, khó dự báo do tính thất thường, cực đoan, đặc biệt là những tác động ngắn hạn. Khi các nỗ lực toàn cầu, đặc biệt là giảm phát thải khí nhà kính, vẫn chưa đạt được như kỳ vọng; hoạt động khai thác, sử dụng nước ở thượng nguồn sông Mê Công ngày càng phức tạp; cơ chế điều phối tiểu vùng khó phát huy được hiệu quả, ĐBSCL sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều tác động bất lợi: thiếu cát, thiếu màu, thiếu nước sẽ còn tiếp diễn nghiêm trọng.
Nghị quyết mới được triển khai thực hiện hơn 03 năm, trong khi mục tiêu, tầm nhìn mang tính chiến lược, dài hạn, cần có thời gian và nguồn lực để đảm bảo triển khai, cụ thể hoá thành những hành động, nhiệm vụ cụ thể.
Những thách thức đó đòi hỏi chúng ta phải hành động nhanh hơn, nhất là trong 5 năm tới, trong đó chủ trương phát triển thuận thiên, lấy tài nguyên nước là yếu tố cốt lõi, cần phải được quản lý tổng hợp trên toàn lưu vực cần tiếp tục được quán triệt trong mọi quyết sách, cụ thể là:
Thứ nhất, về thể chế, cơ chế chính sách:
Phát huy vai trò Hội đồng Điều phối vùng với sự tham gia tích cực hiệu quả của các địa phương trong vùng; tăng cường rà soát, bổ sung và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, đặc biệt là huy động nguồn lực thông qua đối tác công – tư, tập trung đất đai phục vụ chuyển đổi quy mô lớn, quy hoạch các khu vực trồng lúa chuyển đổi mục đích linh hoạt để chủ động trong chuyển đổi cơ cấu sản xuất phù hợp với điều kiện tự nhiên từng năm.
Sớm ban hành Quy hoạch vùng làm căn cứ để triển khai kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của các tỉnh; triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp phát triển các tỉnh, thành phố theo các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước.
Thứ hai, ưu tiên bố trí nguồn lực thực hiện các dự án đa mục tiêu, kết nối vùng phục vụ sản xuất, ổn định đời sống của nhân dân
Khẩn trương bổ sung nguồn vốn thực hiện Chương trình hỗ trợ chính sách phát triển vùng; nguồn vốn đầu tư thông qua các định chế tài chính, tổ chức tín dụng bao gồm Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam.
Ưu tiên thực hiện các dự án hạ tầng đa mục tiêu về thủy lợi, cấp nước sạch, thoát nước, giao thông, ứng phó với BĐKH; kết nối vùng, liên vùng thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế, phát triển thương mại, tạo chuỗi giá trị. Cụ thể là:
– Về giao thông: nâng cấp hệ thống giao thông đường bộ trong vùng và kết nối với thành phố Hồ Chí Minh, Đông Nam Bộ. Tập trung phát triển có trọng điểm hệ thống giao thông đường bộ, thủy nội địa, nhất là vùng ven biển để phát triển kinh tế biển theo hướng thuận thiên.
– Về thủy lợi: kiểm soát lũ, xâm nhập mặn, cấp ngọt phục vụ sản xuất nông nghiệp; hệ thống trữ ngọt cung cấp nước sinh hoạt phục vụ người dân khu vực thường xảy ra xâm nhập mặn; đầu tư xử lý sạt lở bờ sông và củng cố đê biển. [tập trung hoàn thành các dự án hệ thống thủy lợi: Cái Lớn – Cái Bé giai đoạn 1; Bắc và Nam Bến Tre; tiểu vùng II, III, V Cà Mau; Dự án Tha La, cống Trà Sư].
– Về xây dựng: phát triển hạ tầng đô thị xanh thông minh, thích ứng với BĐKH; cấp nước an toàn…; nâng cấp mạng lưới điện nông thôn.
Thứ ba, tăng cường điều tra cơ bản, năng lực quan trắc, dự báo, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu
Thứ tư, thúc đẩy chuyển đổi quy mô lớn, đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu hợp lý
Thứ năm, thúc đẩy nghiên cứu khoa học, công nghệ, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, chuyển dịch cơ cấu lao động và tăng cường hợp tác quốc tế
Thứ sáu, tổng kết những bài học kinh nghiệm để nhân rộng cho các vùng sinh thái khác trong cả nước, đóng góp mô hình phát triển bền vững cho thế giới.
Phó Chủ nhiệm VPCP Trần Văn Sơn mở đầu Hội nghị, tuyên bố lý do, giới thiệu các đại biểu. Ảnh: VGP/Quang Hiếu |
Theo chương trình,Hội nghị sẽ xem phim tư liệu về kết quả đạt được trong việc thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ: “Phát triển thuận thiên kiến tạo thịnh vượng cho Đồng bằng sông Cửu Long”.
Tiếp đến, Hội nghị sẽ nghe Báo cáo đánh giá 3 năm thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP, đề xuất giải pháp thúc đẩy thực hiện Nghị quyết trong thời gian tới; 04 báo cáo chuyên đề và các tham luận.
Cách đây hơn 3 năm, cũng tại Cần Thơ, hội nghị đầu tiên về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thích ứng với biến đổi khí hậu được tổ chức. Tại Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khẳng định quan điểm nhất quán của Chính phủ về phát triển ĐBSCL: Tôn trọng quy luật tự nhiên, chọn mô hình thích ứng theo tự nhiên, thuận thiên là chính, tránh can thiệp thô bạo vào tự nhiên, phát triển bền vững theo phương châm sống chung với lũ, sống chung với mặn, với khô hạn, thiếu nước, phù hợp với điều kiện thực tế.
Thành công lớn của Hội nghị là cơ sở để Chính phủ ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 về phát triển bền vững ĐBSCL, đề ra tầm nhìn tới năm 2100, mục tiêu tới năm 2050, các quan điểm chỉ đạo, chủ trương và định hướng chiến lược phát triển ĐBSCL, các giải pháp tổng thể và các nhiệm vụ cụ thể trong thời gian tới.
Trong ba năm qua, các quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết đang thấm dần và đã thể hiện trên thực tế bằng những giải pháp phi công trình để ứng phó với biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn, và đã mang lại nhiều “trái ngọt”.
Diện tích canh tác ba vụ lúa được cắt giảm. Nhiều mô hình canh tác ở vùng nước lợ, mặn, nhiều giống lúa chịu mặn được thử nghiệm cho kết quả khích lệ. Nhiều mặt hàng gạo Việt Nam đã được vinh danh quốc tế. Chuỗi một số ngành hàng nông sản ở đồng bằng bắt đầu được xâu kết.
Giữ đúng cam kết về việc hai năm một lần đánh giá toàn diện chính sách cho ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu, đến nay, người đứng đầu Chính phủ đã chủ trì hai hội nghị quy mô lớn.
Hội nghị lần thứ 3 này sẽ thảo luận, đánh giá những việc đã làm được, đặc biệt những kết quả nổi bật, những hạn chế, khó khăn, bài học kinh nghiệm và đề xuất giải pháp thúc đẩy triển khai thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP.
Dự kiến, Hội nghị có sự tham dự của lãnh đạo Chính phủ, Quốc hội; nhiều đồng chí nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước; đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành; đại diện các tổ chức quốc tế, đối tác phát triển; đại diện lãnh đạo các địa phương Đồng bằng sông Cửu Long; các viện nghiên cứu, trường đại học; cùng đông đảo doanh nghiệp trong khu vực./.
Ý kiến ()