Thủ tướng phân công nhiệm vụ trong chỉ đạo, điều hành công tác phòng, chống dịch COVID-19
1. Các đồng chí Phó Thủ tướng Chính phủ căn cứ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, tình hình thực tế, các kiến nghị, đề xuất của địa phương, người dân và doanh nghiệp để chỉ đạo các bộ, ngành xử lý ngay các vấn đề phát sinh, bảo đảm kịp thời yêu cầu phòng chống dịch, ổn định đời sống Nhân dân và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; tập trung hoàn thiện, bổ sung các biện pháp, cơ chế, chính sách phù hợp với từng ngành, lĩnh vực để huy động mọi nguồn lực, kêu gọi sự ủng hộ, chia sẻ, đồng tình của người dân, doanh nghiệp, tổ chức tham gia tích cực thực hiện công tác phòng chống dịch COVID-19 đạt hiệu quả cao nhất; trực tiếp xem xét, xử lý và quyết định theo quy định, báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các vấn đề vượt thẩm quyền. Cụ thể:
– Đồng chí Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh: Chỉ đạo, điều hành, xử lý các vấn đề về ngoại giao vaccine, thuốc chữa bệnh COVID-19; thúc đẩy chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine, mua thuốc chữa bệnh từ nước ngoài; vận động tài trợ quốc tế về tài chính, vật tư, trang thiết bị, thuốc, vaccine… phục vụ công tác phòng, chống dịch; các hoạt động đối ngoại khác liên quan đến công tác phòng, chống dịch COVID-19.
– Đồng chí Phó Thủ tướng Lê Minh Khái: Chỉ đạo, điều hành, xử lý các vấn đề liên quan đến chính sách tài chính, thuế, bảo hiểm, lãi suất ngân hàng, cơ chế mua sắm, giá các dịch vụ thiết yếu, các khoản hỗ trợ,… đối với doanh nghiệp, người dân, đặc biệt là người lao động xa quê, mất việc làm tại các địa bàn thực hiện giãn cách xã hội, phong tỏa, cách ly … .
– Đồng chí Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, Trưởng Ban chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19 (Ban Chỉ đạo Quốc gia): Chỉ đạo kiện toàn Ban Chỉ đạo Quốc gia, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các tiểu ban thuộc Ban Chỉ đạo Quốc gia; tập trung chỉ đạo công tác phòng, chống dịch COVID-19; chỉ đạo Bộ Y tế thực hiện mua trang thiết bị, vật tư y tế, phân bổ vaccine, nhập khẩu công nghệ, nghiên cứu, sản xuất vaccine trong nước, tổ chức thực hiện chiến dịch tiêm vaccine kịp thời, an toàn, hiệu quả phù hợp với tình hình dịch bệnh.
- Đồng chí Phó Thủ tướng Lê Văn Thành: Tập trung chỉ đạo tháo gỡ khó khăn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, nhất là các chuỗi sản xuất, cung ứng vật tư, lương thực, thực phẩm, lưu thông hàng hóa phục vụ đời sống Nhân dân, các nhà máy sản xuất hàng xuất khẩu lớn, các điều kiện hỗ trợ việc duy trì sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Bộ trưởng các bộ, thủ trưởng các cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, nắm chắc tình hình, theo sát diễn biến tình hình dịch, các vấn đề phát sinh gây khó khăn trong đời sống, an ninh, an toàn của Nhân dân và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; chủ động, linh hoạt, sáng tạo xử lý kịp thời, hiệu quả, đề xuất các giải pháp hiệu lực hơn, hiệu quả hơn, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định đối với các trường hợp vượt thẩm quyền.
3. Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ Kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết của Quốc hội, các Nghị quyết, Chỉ thị chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Ban Chỉ đạo Quốc gia; đặt tính mạng, sức khỏe của người dân lên trên hết, trước hết để chủ động, quyết liệt, mạnh mẽ trong tổ chức thực hiện các giải pháp phòng, chống dịch trên địa bàn theo thẩm quyền, bảo đảm yêu cầu nhanh nhất, hiệu quả nhất. Kịp thời nắm bắt, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc phát sinh để bảo đảm ổn định đời sống, an ninh, an toàn cho người dân, bảo đảm các điều kiện để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh an toàn trên địa bàn, đồng thời bảo đảm các yêu cầu an toàn phòng chống dịch, kịp thời báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định trong trường hợp vượt thẩm quyền.
Dịch bệnh COVID-19 với biến chủng Delta diễn biến phức tạp, nhanh, khó lường; công tác phòng, chống dịch COVID-19 chưa có tiền lệ. Vì vậy, chúng ta cần bám sát thực tiễn, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, kịp thời bổ sung hoàn thiện dần, không cầu toàn, không nóng vội; đặc biệt cần coi trọng tính thiết thực, hiệu quả, thực chất, không phô trương hình thức, lơ là chủ quan mất cảnh giác; tuyệt đối không quan liêu, xa dân, không để xảy ra tiêu cực, lãng phí.
Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về một số giải pháp miễn, giảm thuế nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch COVID-19
Văn phòng Chính phủ vừa có Thông báo 209/TB-VPCP ngày 5/8/2021 kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về một số giải pháp miễn, giảm thuế nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch COVID-19.
Thủ tướng Chính phủ đánh giá cao việc Bộ Tài chính đã nhanh chóng, kịp thời đề xuất Thường trực Chính phủ về các giải pháp miễn, giảm thuế ngay sau khi Quốc hội ban hành Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021 nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch COVID-19.
Thường trực Chính phủ và các cơ quan tham dự cuộc họp cơ bản nhất trí với các giải pháp miễn, giảm thuế hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch COVID-19 theo đề xuất của Bộ Tài chính tại cuộc họp trên tinh thần: Các giải pháp khi được ban hành cần phát huy hiệu quả cao nhất, hỗ trợ kịp thời cho người dân, doanh nghiệp, giảm thiểu các thủ tục hành chính không cần thiết để có thể thực hiện ngay; cân nhắc phân tích, đánh giá kỹ tác động giảm thuế thu nhập đối với các đối tượng, về thuế giá trị gia tăng cân nhắc mở rộng đối tượng bảo đảm công bằng, tham vấn thêm ý kiến cộng đồng doanh nghiệp. Thời hạn áp dụng các chính sách miễn, giảm thuế trước mắt thực hiện trong năm 2021.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Tài chính tiếp thu đầy đủ các ý kiến tại cuộc họp, nhất là các nội dung nêu trên, tổng hợp, hoàn thiện hồ sơ dự án Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về một số giải pháp về miễn, giảm thuế nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch COVID-19, gửi Bộ Tư pháp để thẩm định chậm nhất trong ngày 6/8/2021 theo trình tự, thủ tục rút gọn.
Bộ Tư pháp có ý kiến thẩm định gửi Bộ Tài chính chậm nhất trong ngày 8/8/2021. Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính tổng hợp hoàn thiện hồ sơ, trình Chính phủ trước ngày 10/8/2021 để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Văn phòng Chính phủ tổ chức lấy ý kiến các Thành viên Chính phủ trong vòng một ngày làm việc, phối hợp với Bộ Tài chính để tiếp thu, hoàn thiện hồ sơ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo quy định.
Bộ Tài chính khẩn trương tổng hợp ý kiến các bộ, cơ quan liên quan để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước ngày 10/8/2021 về việc tiếp tục giảm tiền thuê đất theo đề xuất của Bộ Tài chính; tiếp tục rà soát đề xuất các biện pháp thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19, đồng thời nghiên cứu, hoàn thiện các giải pháp tăng thu, giảm chi ngân sách nhà nước, báo cáo Chính phủ.
Tiếp tục ưu tiên cấp tiếp vaccine phòng COVID-19 cho TPHCM và các tỉnh phía nam
Văn phòng Chính phủ có Công văn số 5337/VPCP-KGVX ngày 4/8/2021 nêu rõ, xét đề nghị của UBND TPHCM về việc phân bổ vaccine cho TPHCM; báo cáo của Bộ Y tế về việc phân bổ vaccine phòng COVID-19, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính có ý kiến như sau: Bộ Y tế khẩn trương thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 5256/VPCP-KGVX ngày 1/8/2021 để tiếp tục ưu tiên cấp tiếp vaccine phòng COVID-19 cho TPHCM và các tỉnh phía Nam; xây dựng phương án phân bổ đối với các lô vaccine tiếp theo, báo cáo Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, Trưởng Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19 cho ý kiến trước khi phân bổ; hướng dẫn, đôn đốc các bộ, cơ quan, đơn vị, địa phương đẩy nhanh tiến độ tiêm vaccine phòng COVID-19, kịp thời cập nhật tình hình thực hiện cho Bộ Y tế tổng hợp.
Phân bổ vaccine bảo đảm không phân biệt giữa lực lượng y tế công-tư
Xét đề nghị “Ưu tiên tiêm vaccine phòng COVID-19 cho lực lượng y tế tư nhân tham gia tuyến đầu phòng, chống dịch COVID-19” của Hiệp hội Bệnh viện tư nhân Việt Nam, tại công văn số 5328/VPCP-KGVX ngày 4/8/2021, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã yêu cầu Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện việc phân bổ, tổ chức tiêm vaccine phòng COVID-19 cho các nhóm đối tượng, bảo đảm không phân biệt giữa lực lượng y tế công-tư.
Vận tải hàng hóa bảo đảm thông suốt và an toàn phòng, chống dịch COVID-19
Ngày 5/8/2021, Văn phòng Chính phủ có công văn 5366/VPCP-CN truyền đạt ý kiến của Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam về công tác phòng, chống dịch COVID-19 trong hoạt động vận tải.
Cụ thể, Phó Thủ tướng giao Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp với các Bộ: Y tế, Công Thương, Công an, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các cơ quan liên quan tiếp tục thực hiện các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; chủ động tổ chức, quản lý hoạt động vận tải hàng hóa bảo đảm thông suốt và an toàn phòng, chống dịch COVID-19.
Các Bộ: Y tế, Công Thương, Công an, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn theo chức năng nhiệm vụ phối hợp chặt chẽ với Bộ Giao thông vận tải trong quản lý hoạt động vận tải hàng hóa bảo đảm thông suốt và an toàn phòng, chống dịch COVID-19.
Bộ Y tế nghiên cứu xem xét kiến nghị của Bộ Giao thông vận tải về việc ưu tiên tiêm vaccine phòng COVID-19 cho người điều khiển phương tiện, người tham gia vận chuyển hàng hóa, hướng dẫn các địa phương tổ chức thực hiện theo quy định.
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các cơ quan đơn vị thực hiện thống nhất theo hướng dẫn của Bộ Y tế và Bộ Giao thông vận tải về công tác phòng chống dịch bệnh COVID-19 trong hoạt động vận tải; phối hợp với Bộ Giao thông vận tải khẩn trương triển khai hệ thống luồng xanh đường thủy.
Thủ tướng Chính phủ chỉ thị nâng cao hiệu quả thực hiện và đổi mới cơ chế quản lý tài chính, thu nhập gắn với đặc thù của cơ quan quản lý hành chính Nhà nước
Ngày 5/8/2021, Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị số 21/CT-TTg ngày 5/8/2021 về nâng cao hiệu quả thực hiện và đổi mới cơ chế quản lý tài chính, thu nhập gắn với đặc thù của cơ quan quản lý hành chính Nhà nước.
Chỉ thị nêu: Thời gian qua, việc thực hiện cơ chế quản lý tài chính, thu nhập gắn với đặc thù của cơ quan quản lý hành chính Nhà nước đã đạt những kết quả quan trọng; chất lượng công việc được nâng cao, đáp ứng tốt hơn yêu cầu công tác quản lý và thực hiện nhiệm vụ; các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước chủ động sử dụng nguồn lực tài chính được giao theo quy định để tổ chức thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch công tác, phát triển nguồn nhân lực và đầu tư trang thiết bị phục vụ cải cách hành chính, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính; góp phần bảo đảm thu nhập, đãi ngộ hợp lý, thu hút được đội ngũ công chức có trình độ chuyên môn và trách nhiệm cao phục vụ công việc; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu; nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí gắn với thực hiện có chất lượng nhiệm vụ được giao.
Bên cạnh kết quả đạt được, việc thực hiện cơ chế quản lý tài chính, thu nhập gắn với đặc thù còn một số hạn chế, khó khăn, cụ thể: Tính pháp lý về thẩm quyền và quy định pháp luật chưa đồng nhất, trong đó thẩm quyền quyết định cơ chế quản lý tài chính, thu nhập gắn với đặc thù được quy định ở nhiều cấp và bằng các hình thức văn bản khác nhau; mức độ tự chủ về nguồn lực tài chính của các cơ quan có sự khác nhau tạo ra sự chênh lệch về thu nhập giữa các vị trí công việc tương đương trong các đơn vị thuộc cùng một bộ, ngành cũng như giữa các cơ quan, đơn vị thuộc các bộ, ngành khác cùng thực hiện chức năng quản lý hành chính Nhà nước; phân phối thu nhập ở một số đơn vị còn mang tính cào bằng, bình quân; thiếu các chỉ tiêu cụ thể đánh giá kết quả, hiệu quả công việc; chưa bảo đảm sự khách quan, công khai, minh bạch…
Để khắc phục những hạn chế, bất cập, nâng cao hiệu quả thực hiện và đáp ứng yêu cầu đổi mới cơ chế tài chính gắn với đặc thù đơn vị theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả (Nghị quyết số 18-NQ/TW) và Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày 21/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp (Nghị quyết số 27-NQ/TW); thực hiện Kết luận số 77-KL/TW ngày 5/6/2020 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 9/10/2020 của Hội nghị lần thứ mười ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII; căn cứ khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 129/2020/QH14 ngày 13/11/2020 của Quốc hội về phân bổ ngân sách Trung ương, điểm d khoản 3 Mục II Nghị quyết số 01-NQ/CP ngày 1/1/2021 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2021, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan liên quan tập trung chỉ đạo, triển khai thực hiện các nội dung chủ yếu.
Tách bạch cơ chế quản lý của cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập
Chỉ thị nêu rõ mục tiêu, nguyên tắc, quan điểm định hướng:
1. Đổi mới cơ chế quản lý tài chính, thu nhập gắn với đặc thù của cơ quan quản lý hành chính Nhà nước cần bảo đảm nguyên tắc phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước, chức năng cung ứng dịch vụ công, việc cung ứng dịch vụ phục vụ quản lý Nhà nước, tách bạch cơ chế quản lý của cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập; thực hiện thống nhất chính sách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW của Trung ương.
2. Tiếp tục phát huy kết quả tích cực của cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước có nguồn tài chính hợp pháp theo quy định pháp luật (từ nguồn thu phí được để lại chi, từ nguồn thu hoạt động nghiệp vụ) bảo đảm bù đắp chi hoạt động của cơ quan; các cơ quan quản lý hành chính đã được cấp có thẩm quyền giao khoán ổn định biên chế và dự toán chi ngân sách Nhà nước trong thời gian từ 3 đến 5 năm.
3. Các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước được áp dụng cơ chế quản lý tài chính có trách nhiệm quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn tài chính được giao theo chế độ quy định, đúng quy định của Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Phí và lệ phí và các quy định pháp luật liên quan; nêu cao tính chủ động, tự chịu trách nhiệm, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn tài chính trong thực hiện nhiệm vụ được giao, bảo đảm sự công khai, minh bạch; tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính trong việc quản lý thu, chi tài chính của cơ quan.
Năm 2022, tiếp tục thực hiện tiết kiệm chi tối thiểu 15%
Chỉ thị cũng nêu rõ lộ trình và giải pháp thực hiện. Theo đó, từ năm 2021 cho tới khi thực hiện cải cách chính sách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW, tiếp tục thực hiện cơ chế quản lý tài chính, thu nhập gắn với đặc thù của cơ quan quản lý hành chính Nhà nước theo quyết định của cấp có thẩm quyền.
Đối với dự toán thu, chi ngân sách Nhà nước năm 2021, thực hiện tiết kiệm chi tối thiểu 15% so với dự toán được giao năm 2020. Đối với dự toán năm 2022, tiếp tục thực hiện tiết kiệm chi tối thiểu 15% so với dự toán năm 2021 (ngoài chi lương, các khoản đóng góp theo lương theo chế độ quy định) để tiết kiệm chi hoặc tăng thu ngân sách Nhà nước.
Trước ngày 15/8/2021, yêu cầu các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước tự bảo đảm chi hoạt động từ nguồn tài chính hợp pháp theo quy định pháp luật (nguồn thu dịch vụ, nguồn thu phí được để lại theo chế độ); các cơ quan quản lý hành chính đã được cấp có thẩm quyền giao khoán ổn định biên chế và dự toán chi ngân sách Nhà nước trong thời gian từ 3 đến 5 năm thực hiện đánh giá việc thực hiện cơ chế tài chính gắn với đặc thù của cơ quan, đơn vị thời gian qua và đề xuất, kiến nghị các giải pháp bảo đảm hiệu quả hoạt động của các cơ quan được áp dụng cơ chế tài chính gắn với đặc thù đơn vị khi thực hiện cải cách chính sách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW (trong đó có giải pháp phù hợp bảo đảm nguồn cho việc thực hiện các nhiệm vụ chi đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật và các khoản chi cần thiết khác ngoài tiền lương, thu nhập) gửi Bộ Tài chính để tổng hợp, chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan đề xuất đổi mới cơ chế tài chính gắn với đặc thù của các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước trong giai đoạn tới báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định hoặc trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Rà soát, bãi bỏ chế độ chi bồi dưỡng, các khoản chi ngoài lương có nguồn gốc từ NSNN
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành được áp dụng cơ chế tài chính gắn với đặc thù và các bộ, ngành có các cơ quan hành chính trực thuộc được áp dụng cơ chế tài chính gắn với đặc thù đơn vị chuẩn bị các công việc cần thiết để triển khai thực hiện theo lộ trình trên, trong đó tập trung thực hiện các nhiệm vụ cụ thể như sau:
a) Tăng cường kiểm tra, giám sát công tác quản lý tài chính; sử dụng kinh phí đúng quy định, đúng mục đích, đúng đối tượng, hiệu quả, công khai, minh bạch; xử lý nghiêm các vi phạm.
b) Rà soát các văn bản do bộ, cơ quan Trung ương ban hành, trình cấp có thẩm quyền sửa đổi hoặc sửa đổi theo thẩm quyền để bãi bỏ nội dung liên quan đến chế độ chi bồi dưỡng, các khoản chi ngoài lương của cán bộ, công chức, viên chức có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước (như: Tiền bồi dưỡng họp, tiền bồi dưỡng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đề án, hội thảo….), trong đó xác định rõ thời gian hoàn thành để bảo đảm có hiệu lực thi hành cùng thời điểm thực hiện chế độ tiền lương mới theo Nghị quyết số 27-NQ/TW.
c) Rà soát, tổng hợp tình hình quản lý, sử dụng công chức, viên chức, bảo đảm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật; bố trí viên chức hoặc người lao động đúng chức trách, nhiệm vụ để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước về ngành, lĩnh vực.
d) Phân tích, đánh giá và đề xuất, kiến nghị các giải pháp, cơ chế bảo đảm hiệu quả hoạt động của các cơ quan, đơn vị sau khi thực hiện chính sách tiền lương mới theo Nghị quyết số 27-NQ/TW (trong đó có giải pháp, cơ chế bảo đảm nguồn cho việc thực hiện các nhiệm vụ chi đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật và các khoản chi cần thiết khác, ngoài tiền lương, thu nhập) trên cơ sở quy định của pháp luật về ngân sách Nhà nước, phí và lệ phí và các quy định pháp luật có liên quan; xây dựng dự toán ngân sách Nhà nước năm 2022 của cơ quan, đơn vị theo cơ chế trên, gửi Bộ Tài chính để tổng hợp, báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định về dự toán ngân sách Nhà nước năm 2022 (tháng 10/2021).
Thủ tướng Chính phủ cũng yêu cầu các bộ, ngành, cơ quan phối hợp chặt chẽ với Bộ Nội vụ hoàn thiện quy định về chế độ công chức, công vụ, xác định vị trí việc làm, cơ cấu công chức của đơn vị quản lý gắn với chức danh, chức vụ, nhiệm vụ chuyên môn, nghiệp vụ. Đồng thời, rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách đánh giá cán bộ, công chức gắn với cải cách chính sách tiền lương để phát huy trách nhiệm và nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc.
Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững giai đoạn 2021-2025
Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết 84/NQ-CP ngày 5/8/2021 phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững giai đoạn 2021-2025 với mục tiêu phát triển lâm nghiệp thực sự trở thành ngành kinh tế – kỹ thuật theo hướng hiện đại, hiệu lực, hiệu quả và sức cạnh tranh cao, liên kết theo chuỗi từ phát triển rừng, bảo vệ rừng, sử dụng rừng đến chế biến và thương mại lâm sản.
Đồng thời, quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững diện tích rừng và diện tích đất quy hoạch cho phát triển lâm nghiệp; phát huy tiềm năng, vai trò và tác dụng của rừng để góp phần tạo việc làm, thu nhập cho người dân gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học, giảm thiểu tác động tiêu cực do thiên tai, tăng cường khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu; góp phần bảo vệ quốc phòng, an ninh.
Chương trình đặt mục tiêu cụ thể là bảo vệ và phát triển bền vững đối với toàn bộ diện tích rừng hiện có và diện tích rừng được tạo mới trong giai đoạn 2021-2025; quản lý chặt chẽ việc chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác, duy trì ổn định tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc khoảng 42%; tiếp tục nâng cao năng suất, chất lượng rừng, đáp ứng yêu cầu về cung cấp nguyên liệu cho sản xuất và tiêu dùng, phòng hộ và bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, giảm thiểu tác động tiêu cực do thiên tai, tăng cường khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu.
Phấn đấu tốc độ tăng giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt 5,0-5,5%/năm. Giá trị xuất khẩu gỗ và lâm sản ngoài gỗ đạt khoảng 20 tỷ USD vào năm 2025, trong đó giá trị xuất khẩu lâm sản ngoài gỗ đạt trên 1,5 tỷ USD, tăng tỷ trọng chế biến sâu và xuất khẩu các sản phẩm gỗ và lâm sản có giá trị gia tăng cao.
Góp phần tạo việc làm, thu nhập cho người làm nghề rừng. Đến năm 2025, giá trị thu nhập từ rừng trồng là rừng sản xuất tăng bình quân khoảng 1,5 lần/đơn vị diện tích so với năm 2020.
Nghị quyết cũng đưa ra các nội dung ưu tiên như bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng và phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng ven biển. Cụ thể, đầu tư bảo vệ và phát triển bền vững đối với diện tích rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất là rừng tự nhiên hiện có, thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án về bảo tồn đa dạng sinh học các hệ sinh thái rừng; đầu tư trang thiết bị bảo vệ, phòng cháy và chữa cháy rừng; hỗ trợ xây dựng đường lâm nghiệp cho các đơn vị, địa phương có vùng nguyên liệu tập trung, nơi có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn.
Phát triển giống cây lâm nghiệp, trồng rừng gỗ lớn; hỗ trợ phát triển lâm sản ngoài gỗ theo thế mạnh của từng địa phương, vùng, miền; xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung cây lâm sản ngoài gỗ gắn với phát triển công nghiệp chế biến, tạo những sản phẩm đặc trưng cho từng vùng và phù hợp với nhu cầu của thị trường.
Hỗ trợ đầu tư, phát triển công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản theo cơ chế, chính sách về khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông thôn và theo quy định của pháp luật.
Tổng mức vốn thực hiện Chương trình dự kiến là 78.850 tỷ đồng, trong đó: Ngân sách Nhà nước 13.720 tỷ đồng, chiếm 17,4% và các nguồn vốn hợp pháp khác 65.130 tỷ đồng, chiếm 82,6%.
Chương trình thực hiện trong 5 năm từ năm 2021-2025.
Phê duyệt Đề án tổng kiểm kê tài nguyên nước quốc gia, giai đoạn đến năm 2025
Ngày 4/8/2021, Phó Thủ tướng Lê Văn Thành vừa ký Quyết định 1383/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tổng kiểm kê tài nguyên nước quốc gia, giai đoạn đến năm 2025.
Đề án trên được triển khai từ năm 2021 đến năm 2025 với mục tiêu chung là công bố được các chỉ tiêu kiểm kê tài nguyên nước (lần đầu) trên các lưu vực sông liên tỉnh và trên phạm vi cả nước trên cơ sở thông tin, số liệu kiểm kê được thực hiện chính xác, đồng bộ, đúng thời gian. Các số liệu kiểm kê về tài nguyên nước, khai thác sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước là số liệu quan trọng phục vụ cho công tác quản lý Nhà nước về tài nguyên nước, quy hoạch, điều hòa, phân bổ tài nguyên nước; làm cơ sở để hoàn thiện chính sách, pháp luật về tài nguyên nước, và lập, điều chỉnh chiến lược, quy hoạch, kế hoạch khai thác sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước, hướng tới việc đảm bảo an ninh tài nguyên nước, phát triển kinh tế-xã hội và chuyển đổi số quốc gia, cung cấp dịch vụ công trực tuyến trong lĩnh vực tài nguyên nước.
Đề án đặt mục tiêu cụ thể là tổng kiểm kê tài nguyên nước quốc gia để có được các chỉ tiêu kiểm kê lần đầu về tài nguyên nước, khai thác, sử dụng nước và xả nước thải vào nguồn nước, gồm: Lượng nước mặt; chất lượng nước mặt; chất lượng nước dưới đất; khai thác, sử dụng nước mặt; khai thác, sử dụng nước biển; xả nước thải vào nguồn nước… đồng thời, xây dựng phần mềm quản lý, cập nhật, khai thác dữ liệu kiểm kê tài nguyên nước quốc gia và công bố được kết quả kiểm kê tài nguyên nước trong kỳ kiểm kê trên các lưu vực sông liên tỉnh và trên phạm vi cả nước.
Để đạt được mục tiêu trên, Đề án thực hiện xây dựng nội dung, dự toán và kế hoạch chi tiết để thực hiện kiểm kê tài nguyên nước trên phạm vi cả nước, bảo đảm khả thi, hiệu quả, đồng bộ và tránh lãng phí nguồn lực; thu thập, kế thừa các thông tin, số liệu liên quan đến chỉ tiêu kiểm kê, điều tra cơ bản từ các giai đoạn trước và trong kỳ kiểm kê.
Xây dựng phần mềm quản lý, cập nhật, khai thác dữ liệu kiểm kê tài nguyên nước bảo đảm kết nối với cơ sở dữ liệu ngành tài nguyên môi trường và chuyển đổi số quốc gia; xây dựng các biểu mẫu, quy trình, phương pháp kiểm kê; tập huấn, chuyển giao và hướng dẫn sử dụng phần mềm, hướng dẫn kiểm kê.
Thực hiện kiểm kê các chỉ tiêu tại thực địa; tổng hợp, xử lý, phân loại thông tin, số liệu kết quả thu thập, điều tra thực địa và cập nhật số liệu vào phần mềm; kiểm tra, đối chiếu đối với từng chỉ tiêu kiểm kê tài nguyên nước; tổng hợp, công bố kết quả tổng kiểm kê tài nguyên nước quốc gia, giai đoạn đến năm 2025.
Thành lập Hội đồng thẩm định nhà nước thẩm định Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án đầu tư xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc-Nam phía đông giai đoạn 2021-2025
Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành ký Quyết định số 1381/QĐ-TTg ngày 4/8/2021 thành lập Hội đồng thẩm định nhà nước thẩm định Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án đầu tư xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc-Nam phía đông giai đoạn 2021-2025 (Dự án). Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm Chủ tịch Hội đồng.
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm Phó Chủ tịch Hội đồng.
Các Ủy viên Hội đồng gồm lãnh đạo các Bộ: Giao thông vận tải, Tài chính, Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Quốc phòng, Công an, Xây dựng, Tư pháp, Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Thông tin và Truyền thông, Khoa học và Công nghệ; lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan thường trực của Hội đồng thẩm định nhà nước.
Trách nhiệm, quyền hạn của Hội đồng, Chủ tịch Hội đồng, Phó Chủ tịch Hội đồng, các Ủy viên Hội đồng, cơ quan thường trực Hội đồng được thực hiện tương ứng theo quy định tại các Điều 4, Điều 5, Điều 6, Điều 7, Điều 8 Nghị định số 29/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục thẩm định dự án quan trọng quốc gia và giám sát, đánh giá đầu tư.
Phó Thủ tướng yêu cầu các cơ quan có thành viên thuộc Hội đồng thẩm định nhà nước có văn bản cử người và gửi về Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước ngày 10/8/2021. Bộ Giao thông vận tải có trách nhiệm cung cấp đầy đủ hồ sơ liên quan đến quá trình thẩm định Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án./.
Ý kiến ()