Thủ tục rườm rà tạo gánh nặng bằng mức thuế 160%
Nghiên cứu của WB cho thấy các quy định thương mại lỗi thời kết hợp với các thủ tục hành chính rườm rà, không minh bạch đã tạo ra một gánh nặng cho tăng trưởng kinh tế tương đương với “mức thuế quan vô hình” lên tới 164,25%.
Các diễn giả tham dự hội nghị. |
Ông Nestor Scherbey, Cố vấn cao cấp của Liên minh Tạo thuận lợi Thương mại toàn cầu (GATF) cho biết như vậy tại hội nghị “Bước kế tiếp trong tạo thuận lợi thương mại tại Việt Nam”.
Hội nghị do Ban Nghiên cứu Phát triển Kinh tế Tư nhân (Ban IV) của Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính, Tổng cục Hải quan và GATF tổ chức sáng 10/9.
Ông Nestor Scherbey cho biết, GATF – một tổ chức đối tác công-tư, phụ trách bởi Diễn đàn Kinh tế Thế giới – đã chọn Việt Nam là quốc gia đang phát triển đầu tiên ở châu Á để hỗ trợ thực hiện Hiệp định Tạo thuận lợi Thương mại của WTO (WTO TFA) bằng cách giới thiệu một hệ thống bảo lãnh thông quan hiện đại áp dụng cho các hoạt động thương mại xuất nhập khẩu.
Vị chuyên gia cao cấp cho biết, các ước tính về chi phí thương mại tương đương theo giá trị hàng ở các nước đang phát triển là 219% và là 134% ở các nước có thu nhập cao. Chi phí thương mại là rất lớn và phần lớn xuất phát từ các chính sách, mà cụ thể là các thủ tục hành chính.
Cụ thể hơn, một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới tại 126 nước cho thấy chỉ khoảng 25% lý do của sự chậm trễ của các lô hàng là do đường sá hoặc cơ sở hạ tầng cảng yếu kém. 75% còn lại là do rào cản hành chính – nhiều thủ tục hải quan, thủ tục thuế, các yêu cầu về giấy chứng nhận, thông quan và kiểm tra hàng hóa – thường là trước khi container đến cảng.”
“Điều này có nghĩa là các quy định thương mại lỗi thời kết hợp với các thủ tục hành chính rườm rà, không minh bạch đã tạo ra một gánh nặng cho tăng trưởng kinh tế tương đương với “mức thuế quan vô hình” lên tới 164,25%”, ông Nestor Scherbey cho biết.
Tương tự như ở các nước, mức thuế vô hình nói trên bị áp lên bởi những quy định thương mại lỗi thời và các thủ tục hành chính liên quan, kết hợp lại tạo thành rào cản phi thuế quan và kỹ thuật đáng kể nhất đối với hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam.
Vẫn theo ông Nestor Scherbey, đây cũng là rào cản lớn nhất cho sự gia nhập của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam vào các chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu. Theo các thống kê chính thức, 97% doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nghiên cứu của Diễn đàn Kinh tế Thế giới cho thấy việc thực hiện Hiệp định Tạo thuận lợi Thương mại của WTO có thể làm tăng 60% đến 80% doanh số xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nền kinh tế.
Áp dụng nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới với 126 quốc gia vào dữ liệu thương mại năm 2016 của Việt Nam cũng cho thấy, việc giảm 1 ngày trong thời gian xử lý thương mại và thông quan xuất khẩu sẽ dẫn đến mức tăng tối thiểu 1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm, tương đương 2,13 tỷ USD. Đối với một số mặt hàng quan trọng trong nông nghiệp và các hàng hoá nhạy cảm với thời gian, mức tăng có thể lên đến 6%. Giảm 5 ngày sẽ mang lại kim ngạch xuất khẩu khoảng 10,65 tỷ USD.
“Một nghiên cứu khác cho thấy lợi ích từ việc tăng 10% tính minh bạch lên theo yêu cầu của WTO TFA sẽ mang lại kim ngạch nhập khẩu hàng năm là 8,7 tỷ USD. Điều này cũng dựa trên số liệu thương mại năm 2016 của Việt Nam”, ông Nestor Scherbey nhấn mạnh.
Trong bối cảnh đó, việc áp dụng hệ thống bảo lãnh thông quan hiện đại tại Việt Nam được kỳ vọng là cơ sở để giải quyết các vấn đề rào cản nói trên, vừa bảo vệ nguồn thu ngân sách, vừa bảo đảm việc thực thi các quy định của pháp luật.
Bảo lãnh thông quan hoạt động theo cách thức tương tự như hợp đồng bảo hiểm thanh toán cho cơ quan Hải quan nếu một nghĩa vụ nào đó không được thực hiện. Tuy nhiên, không giống như một hợp đồng bảo hiểm, bảo lãnh thông quan có ba bên tham gia, chứ không phải chỉ hai bên. Các bên gồm Hải quan, bên được bảo lãnh là doanh nghiệp và bên bảo lãnh là công ty bảo hiểm.
Theo các chuyên gia, bản chất của mô hình này là tách biệt việc thông quan, giải phóng hàng hoá tại cửa khẩu và thực hiện các yêu cầu về hồ sơ, giấy tờ, điều kiện thành hai luồng quy trình, hoạt động riêng thông qua việc thực hiện bảo lãnh thông quan.
Nói một cách khác, về bản chất giống như mua phí bảo hiểm để bảo đảm nhà nhập khẩu hoặc xuất khẩu sẽ thực hiện nghĩa vụ thuế khi nhập khẩu, xuất khẩu vào Việt Nam. Những vấn đề này được thực hiện trước khi hàng đến và giúp hàng hoá khi về sẽ được thông quan nhanh hơn.
Tuy nhiên, theo Nestor Scherbey, bảo lãnh thông quan làm nhiều chức năng hơn là chỉ đảm bảo thanh toán các khoản thuế, phí. Bảo lãnh thông quan hoạt động để đảm bảo một cơ chế xử phạt chặt chẽ hơn mà qua đó nghĩa vụ thực hiện các yêu cầu tuân thủ thương mại cho hàng nhập khẩu được bảo đảm.
Hiện đã có nhiều nước WTO áp dụng bảo lãnh thông quan, như Hoa Kỳ, Anh, Australia, Singapore, Canada, New Zealand…
Ý kiến ()