Thành công xuất sắc trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng
Thắng lợi của chiến cuộc Ðông Xuân 1953-1954, đỉnh cao là trận quyết chiến chiến lược Ðiện Biên Phủ bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Ðảng giữ vai trò quyết định.
Một là, phát huy thế chủ động mở các đòn tiến công chiến lược phá vỡ kế hoạch Nava: Nắm vững kế hoạch Nava, cuối tháng 9/1953, Bộ Chính trị họp, nhận định: "Ðịch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh... Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn..."(1) và đề ra chủ trương: "Sử dụng một bộ phận chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng địch sơ hở, đồng thời tranh thủ tiêu diệt địch ở những hướng chúng có thể đánh sâu vào vùng tự do của ta" (2). Ðây là định hướng chỉ đạo chiến tranh cực kỳ quan trọng của Ðảng để lãnh đạo quân và dân ta phá kế hoạch Nava - một nỗ lực chiến tranh cao của thực dân Pháp, được Mỹ giúp sức. Chấp hành chủ trương chiến lược của Ðảng, trong Ðông Xuân 1953-1954, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo quân và dân ta phối hợp chặt chẽ với quân, dân hai nước Lào và Campuchia mở liên tiếp năm đòn tiến công chiến lược trên khắp chiến trường Ðông Dương, phá vỡ ý định tập trung khối chủ lực của Pháp, đánh dấu bước phát triển vượt bậc trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Ðảng, tạo ra thế và lực mới cho sự nghiệp kháng chiến.
Hai là, chỉ đạo tiến hành trận quyết chiến chiến lược đánh bại ý chí xâm lược của thực dân Pháp: Với tư duy khoa học, tầm nhìn chiến lược, Trung ương Ðảng đã sớm nhận định, Ðiện Biên Phủ sẽ là nơi quyết định đến cục diện chiến tranh. Ðầu tháng 12/1953, Nava quyết định xây dựng Ðiện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh, hòng thu hút và tiêu diệt lực lượng chủ lực của ta. Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị quyết định tập trung binh lực mở chiến dịch tiến công tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Ðiện Biên Phủ. "Ðây là quyết định sáng suốt, thể hiện sự nhạy bén, linh hoạt trong điều hành chiến tranh của Ðảng, thể hiện bản lĩnh của Ðảng trước thử thách của lịch sử"(3). Trước ngày lên đường ra mặt trận, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn Ðại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp: "Tướng quân tại ngoại". Trao cho chú toàn quyền quyết định"(4). Ðáp lại sự tin tưởng của Trung ương Ðảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ðại tướng Võ Nguyên Giáp đã quyết định thay đổi cách đánh từ "đánh nhanh, giải quyết nhanh" sang "đánh chắc, tiến chắc" phù hợp với khả năng của ta và tình hình thực tiễn. Trải qua 56 ngày đêm chiến đấu, quân và dân ta đã đập tan tập đoàn cứ điểm Ðiện Biên Phủ, đánh bại hình thức phòng ngự cao nhất của địch, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi.
Ba là, chỉ đạo phát huy thế trận chiến tranh nhân dân tạo sức mạnh tổng hợp giành thắng lợi trận quyết chiến chiến lược Ðiện Biên Phủ: Ðể phá Kế hoạch Nava, Ðảng đã thành công trong chỉ đạo quân và dân ta đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các chiến trường phối hợp, khiến cho thực dân Pháp gặp nhiều khó khăn trong bổ sung lực lượng tiếp ứng Ðiện Biên Phủ, nhất là trong giai đoạn cuối, khi quân Pháp đang bị quân ta siết chặt vòng vây. Ðặc biệt, để tập trung giành thắng lợi, Trung ương Ðảng, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh đã chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể, địa phương trong cả nước huy động tối đa sức mạnh vật chất, tinh thần, với khẩu hiệu "Tất cả cho Ðiện Biên Phủ; tất cả để chiến thắng", tạo nên sức mạnh tổng hợp đập tan tập đoàn cứ điểm Ðiện Biên Phủ. Ta đã huy động được 25.056 tấn gạo, 1.824 tấn thịt và thực phẩm cùng 261.453 dân công phục vụ chiến dịch. "Quân đội viễn chinh Pháp không phải chỉ chống chọi với một quân đội chính quy, mà còn phải đương đầu với cả một dân tộc"(5).
Bốn là, chỉ đạo kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp: Cùng đấu tranh quân sự, Ðảng và Chủ tịch Hồ Chi Minh chủ trương sẵn sàng thương lượng hòa bình, sớm kết thúc chiến tranh. Tuy nhiên, trước việc phía Pháp vẫn theo đuổi chiến tranh, Ðảng chỉ rõ: "Ta phải đẩy mạnh kháng chiến, tiêu diệt cho thật nhiều sinh lực địch hơn nữa, thì địch mới chịu nhận thương lượng để giải quyết hòa bình vấn đề Việt Nam, tôn trọng quyền tự do, độc lập của dân tộc ta"(6). Ngày 7/5/1954, Chiến dịch Ðiện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Ngày 8/5/1954, Hội nghị Giơnevơ về Ðông Dương khai mạc, phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bước vào cuộc đàm phán với tư cách người chiến thắng. Thất bại Ðiện Biên Phủ làm cho hy vọng thương lượng trên thế mạnh của Pháp tan vỡ. Ngày 21/7/1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Lần đầu tiên trong lịch sử, các nước lớn tham gia Hội nghị công nhận và cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Thành công của Ðảng trong chỉ đạo Chiến dịch Ðiện Biên Phủ đã để lại nhiều bài học quý, cần vận dụng và phát huy trong tình hình mới:
Một là, quán triệt quan điểm, chủ trương, đường lối của Ðảng về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, kịp thời xử lý hiệu quả các tình huống, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục quán triệt, triển khai các nghị quyết, chiến lược, đề án về quân sự, quốc phòng của Ðảng; thường xuyên nắm chắc tình hình, kịp thời đề xuất các chủ trương, đối sách đúng đắn, xử trí kịp thời, hiệu quả các tình huống; ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, ngăn chặn xung đột từ sớm, từ xa, không để đất nước bị động bất ngờ.
Hai là, xây dựng tiềm lực quốc phòng vững mạnh, trong đó lấy xây dựng tiềm lực chính trị-tinh thần làm cơ sở, nền tảng; tăng cường xây dựng tổ chức đảng, chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh; củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, xây dựng "thế trận lòng dân" vững chắc. Chủ động đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, làm cho các tầng lớp nhân dân hiểu rõ sức mạnh của truyền thống, văn hóa dựng nước, giữ nước của dân tộc. Tăng cường củng cố thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Xây dựng khu vực phòng thủ các tỉnh, thành phố vững chắc, phù hợp với nhiệm vụ bảo vệ, khả năng kinh tế từng địa bàn, hình thành thế trận phòng thủ trên các hướng chiến lược và cả nước.
Ba là, xây dựng quân đội "tinh, gọn, mạnh", tiến lên hiện đại phát huy vai trò lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục xây dựng, điều chỉnh tổ chức quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh, có cơ cấu đồng bộ, hợp lý giữa các thành phần, lực lượng; giảm đầu mối trung gian và đơn vị phục vụ, bảo đảm; điều chỉnh lực lượng phù hợp với đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, khả năng bảo đảm vũ khí, trang bị, giữ vững và phát huy truyền thống quân đội, nghệ thuật quân sự Việt Nam. Nâng cao chất lượng công tác huấn luyện, công tác giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội trong tình hình mới. Duy trì nghiêm các chế độ sẵn sàng chiến đấu, thường xuyên điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống văn kiện và luyện tập, diễn tập theo các phương án tác chiến, sẵn sàng chiến đấu, không để Tổ quốc bị động, bất ngờ.
Bốn là, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng, góp phần bảo vệ Tổ quốc "từ sớm, từ xa". Tiếp tục quán triệt và triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại của Ðảng. Phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy các cấp trong tham mưu, đề xuất với Ðảng, Nhà nước những chủ trương, giải pháp chiến lược liên quan đến hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, trên cơ sở kiên định với những vấn đề mang tính nguyên tắc, đặt lợi ích quốc gia-dân tộc là mục tiêu tối thượng; mềm dẻo, linh hoạt trong ứng xử, xử lý các mối quan hệ, để tăng cường sự đoàn kết, hợp tác quốc tế; kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và lợi ích quốc gia; góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trong mọi tình huống.
--------------------------------------------------
(1) Võ Nguyên Giáp, Ðiện Biên Phủ - Ðiểm hẹn lịch sử, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001, tr.26.
(2) Bộ Quốc phòng, Chiến dịch tiến công Ðiện Biên Phủ (13/3-07/5/1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1991, tr.10.
(3) Bộ Quốc phòng - Tỉnh ủy Ðiện Biên, chiến thắng Ðiện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và hiện thực (7/5/1954-7/5/2019), Nxb QÐND, Hà Nội 2019, tr.879.
(4) Ðại tướng Võ Nguyên Giáp, Quyết định khó khăn nhất, Báo Nhân Dân chủ nhật, ngày 8/5/1989.
(5) Henri Nava, Ðông Dương hấp hối, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 427.
(6) Ðảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Ðảng Toàn tập, tập 14 (1953), Nxb CTQG, Hà Nội, 2001, tr.595.
Ý kiến ()