Cuối tháng 1-1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước, trực tiếp tổ chức và lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và phát-xít Nhật của nhân dân Việt Nam. Dưới sự chủ trì của Người, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941) đã tiếp tục phát triển tư tưởng và đường lối chiến lược cách mạng được vạch ra trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, với một quyết định dứt khoát, sáng tạo về vấn đề dân tộc ở Đông Dương. Nghị quyết nêu rõ: "Nói đến vấn đề dân tộc tức là đã nói đến sự tự do độc lập của mỗi dân tộc tùy theo ý muốn của mỗi dân tộc... Các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn, tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành một dân tộc quốc gia tùy ý... Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng...". Từ quan điểm đó, Đảng ta quyết định:- Thay đổi chiến lược cách mạng, coi cách mạng Đông Dương lúc này là một cuộc "cách mạng giải phóng dân tộc".- Nhiệm...
Cuối tháng 1-1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước, trực tiếp tổ chức và lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và phát-xít Nhật của nhân dân Việt Nam. Dưới sự chủ trì của Người, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941) đã tiếp tục phát triển tư tưởng và đường lối chiến lược cách mạng được vạch ra trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, với một quyết định dứt khoát, sáng tạo về vấn đề dân tộc ở Đông Dương.
Nghị quyết nêu rõ: “Nói đến vấn đề dân tộc tức là đã nói đến sự tự do độc lập của mỗi dân tộc tùy theo ý muốn của mỗi dân tộc… Các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn, tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành một dân tộc quốc gia tùy ý… Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng…”. Từ quan điểm đó, Đảng ta quyết định:
– Thay đổi chiến lược cách mạng, coi cách mạng Đông Dương lúc này là một cuộc “cách mạng giải phóng dân tộc”.
– Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật là nhiệm vụ chung của toàn thể nhân dân, không phân biệt công nhân, nông dân, phú nông, địa chủ, tư sản bản xứ, tôn giáo và xu hướng chính trị. Ai có lòng yêu nước, thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất vào mặt trận chung, đem toàn lực dân tộc để giành quyền độc lập tự do. Mặt trận ấy là Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là Việt Minh.
– Tích cực chuẩn bị lực lượng để thực hiện cuộc khởi nghĩa toàn dân – khởi nghĩa dân tộc, làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, dân Việt Nam được hoàn toàn tự do.
– Sau khi đánh đuổi được Pháp – Nhật sẽ thành lập một nước Việt Nam dân chủ mới. “Chính quyền cách mạng của nước dân chủ mới ấy không phải thuộc quyền riêng của một giai cấp nào mà là của chung cả toàn thể dân tộc”.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lấy ngọn cờ đỏ sao vàng ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh làm lá cờ của toàn quốc và do Quốc dân đại hội cử lên.
Tháng 10-1944, chiến tranh thế giới lần thứ hai sắp bước vào giai đoạn kết thúc. Thắng lợi sẽ thuộc về các lực lượng dân chủ chống phát-xít. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng sắp đến. Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã gửi thư cho quốc dân đồng bào thông báo chủ trương triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân để bầu ra một cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân trước vận hội mới của đất nước. Phải có “Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang”.
Từ tháng 3-1945 trở đi, một cao trào kháng Nhật, cứu nước đã diễn ra mạnh mẽ trong toàn quốc. Các cuộc khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận đã diễn ra thắng lợi ở nhiều địa phương. Tháng 4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng là hình thức tiền Chính phủ, trong đó nhân dân học tập để tiến lên giành chính quyền. Trong các vùng giải phóng, các căn cứ địa thì tổ chức Ủy ban nhân dân cách mạng do dân dùng phổ thông đầu phiếu, hay do đại biểu hội nghị các giới bầu lên. Hội nghị quân sự cách mạng Bắc kỳ họp giữa tháng 4-1945 cũng thảo luận và đề nghị triệu tập đại hội đại biểu của các giới, các đảng phái, các thân sĩ toàn quốc để thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam tiến tới thành lập chính phủ lâm thời. Điều này đã thể hiện rõ tư tưởng và chủ trương tổ chức Quốc dân Đại hội của lãnh tụ Hồ Chí Minh là đúng đắn và được sự nhất trí của Đảng và Mặt trận Việt Minh.
Vào giữa tháng 8-1945, thời cơ tổng khởi nghĩa đã chín muồi trong cả nước. Song quân Đồng minh cũng sắp kéo vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật, và thực dân Pháp cũng đang ráo riết trở lại xâm lược Đông Dương.
Hội nghị toàn quốc của Đảng họp từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945 tại Tân Trào, Tuyên Quang, đã kịp thời quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước; xác lập địa vị làm chủ nước nhà của nhân dân Việt Nam trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương giải giáp quân đội Nhật. Ủy ban Khởi nghĩa đã ra Quân lệnh cho quân dân toàn quốc phải đứng lên giành lấy quyền độc lập và phải hành động cho nhanh, với một tinh thần quả cảm.
Thực hiện tư tưởng nhà nước pháp quyền, kế hoạch triệu tập đại biểu Quốc dân Đại hội đã triển khai, song vì liên lạc khó khăn, giao thông trắc trở, cho nên nhiều đại biểu chưa thể đến kịp. Tình thế vô cùng khẩn cấp, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã thấy thời cơ cách mạng trong mỗi ngày, mỗi giờ khi mà chuyển biến của thời cuộc diễn ra nhanh chóng. Chậm một ngày, một giờ tức là bỏ lỡ cơ hội. Vì vậy lãnh tụ Hồ Chí Minh và Tổng bộ Việt Minh đã quyết định khai mạc Đại hội đại biểu quốc dân ngay từ chiều 16-8-1945 tại Đình Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Hơn 60 đại biểu, đại diện cho các đảng phái chính trị, các đoàn thể cứu quốc, các dân tộc, tôn giáo, có cả đại biểu từ Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Việt kiều ở Thái-lan, ở Lào về dự đại hội. Phần lớn các đại biểu lần đầu được gặp Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ tối cao của dân tộc, được nghe Người vạch rõ phương châm hành động thắng lợi trước tình thế mới. Đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Đảng, báo cáo với đại hội về quyết định phát động Tổng khởi nghĩa và bầu ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng; đồng chí Hoàng Quốc Việt báo cáo về phong trào công nhân; Trần Đức Thịnh báo cáo về phong trào nông dân; Nguyễn Đình Thi báo cáo về văn hóa cứu quốc; Hoàng Đạo Thúy báo cáo về Hướng đạo sinh. Đại hội đã nhất trí tán thành chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa của Đảng và Tổng bộ Việt Minh, thông qua 10 chính sách lớn về đối nội và đối ngoại, trong đó điểm đầu tiên là “phải giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập” và thành lập Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam gồm 15 thành viên do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, Trần Huy Liệu làm Phó Chủ tịch. Ủy ban Dân tộc Giải phóng cũng như Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam mới trước khi thành lập một Chính phủ chính thức. Ủy ban này thay mặt quốc dân mà giao thiệp với các nước ngoài và chủ trì mọi công việc trong nước.
Đại hội bế mạc ngày 17-8-1945 trong bầu không khí Tổng khởi nghĩa sục sôi. Các đại biểu khẩn trương trở về địa phương để lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền theo ba nguyên tắc: tập trung, thống nhất, kịp thời, vì “Không phải Nhật bại là nước ta tự nhiên được độc lập… Chúng ta phải khôn khéo và kiên quyết. Khôn khéo để tránh những sự không lợi cho ta. Kiên quyết để giành cho được nền hoàn toàn độc lập”. “… một dân tộc quyết tâm và nhất trí đòi quyền độc lập thì nhất định được độc lập. Chúng ta sẽ thắng lợi”. (Nghị quyết của Quốc dân Đại hội).
Ngay sau Đại hội Quốc dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào toàn quốc trước giờ phút đấu tranh quyết liệt và khẩn trương Tổng khởi nghĩa. Bức thư có đoạn: “… hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta… Chúng ta không thể chậm trễ”. Người cũng đã gửi thư yêu cầu Liên Hợp quốc thực hiện lời hứa long trọng của mình về quyền được hưởng dân chủ và độc lập của tất cả dân tộc, đồng thời cũng gửi thông điệp yêu cầu Chính phủ Pháp phải công nhận Chính phủ Việt Nam và nêu các điều kiện về mối quan hệ giữa Việt Nam và Pháp. Quốc dân đại hội Tân Trào diễn ra khẩn trương và thắng lợi trong đêm trước của Tổng khởi nghĩa là hình ảnh của khối đại đoàn kết của dân tộc, là cơ quan đại biểu cao nhất của dân tộc, đã nhất trí quyết định đem sức ta mà giải phóng cho ta ở một thời điểm lịch sử thuận lợi ngàn năm có một, quyết giành cho được độc lập hoàn toàn. Với thắng lợi của Cuộc cách mạng Tháng Tám, nhân dân ta đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp – Nhật, lật nhào chế độ quân chủ chuyên chế, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập.
Ngày 25-8-1945, Chủ tịch Ủy ban Dân tộc Giải phóng Hồ Chí Minh đã về Hà Nội. Theo đề nghị của Người, Ủy ban đã tự cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một Chính phủ quốc gia thống nhất gồm 15 thành viên do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch kiêm ngoại giao. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”.
Tổ chức thắng lợi Quốc dân Đại hội Tân Trào để quyết định chuyển xoay vận nước bằng cuộc Tổng khởi nghĩa, thành lập Ủy ban Dân tộc Giải phóng có tính chất một Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một điển hình sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc xây dựng cơ sở pháp quyền đầu tiên cho chế độ dân chủ cộng hòa. Ông Ác-xi-mét L.A-pát-ti (Archimedes L.Apatti), một sĩ quan tình báo Mỹ có mặt ở Việt Nam lúc bấy giờ nhận xét rằng, khi được tin sự sụp đổ của phát-xít Nhật, Hồ Chí Minh đã “hành động một cách kiên quyết và nhanh chóng vì ông phải đảm bảo chiếm được một chỗ đứng chân vững chắc ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Ông Hồ biết rằng Ông phải làm cho mọi người thấy rõ được cả tính hợp pháp lẫn sức mạnh để giữ vững vai trò lãnh đạo và phát triển phong trào” (1).
Quốc dân Đại hội Tân Trào là một điểm sáng tạo độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng và Tổng bộ Việt Minh trong việc phát huy ý chí, sức mạnh của dân tộc. Tính pháp quyền của Đại hội Quốc dân mang tầm vóc lịch sử một Quốc hội, cơ quan đại biểu cao nhất của dân tộc, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất có quyền thông qua nhiệm vụ lịch sử thực hiện kế hoạch Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, thành lập Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của chung cả dân tộc, do dân tộc và vì dân tộc.
—————————————-
(1) Archimedes L.Apatti, Tại sao Việt Nam. Nxb Đà Nẵng, 1995, Tr.146.
Theo Nhandan
Ý kiến ()