Đường Hồ Chí Minh trên biển là một biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, của ý chí và quyết tâm thống nhất đất nước. Đồng thời, đó còn là biểu tượng của sự đoàn kết, giúp đỡ quốc tế, của các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Trong suốt 14 năm hoạt động, kể từ khi Đoàn 759 được thành lập (23-10-1961), theo quyết định của Bộ Quốc phòng, cho đến những chuyến tàu chở hàng hóa, vũ khí phục vụ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, các lực lượng của Đường Hồ Chí Minh trên biển đã vận chuyển được 152.876 tấn vũ khí, trang bị kỹ thuật, thuốc chữa bệnh, lương thực từ miền bắc vào các tỉnh miền trung và Nam Bộ; chiến đấu hàng trăm trận với máy bay của Mỹ và quân đội Việt Nam cộng hòa; đưa đón 80.026 lượt cán bộ, chiến sĩ từ bắc vào nam và từ nam ra bắc.
Để thực hiện được kỳ tích đó, sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, nhạy bén, kịp thời, quyết đoán của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, trực tiếp là Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân, đóng vai trò quan trọng quyết định. Sự quyết tâm, tinh thần dũng cảm, sáng tạo, chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, thủy thủ Đoàn tàu không số, là nhân tố trực tiếp làm nên chiến thắng. Đóng góp quan trọng vào thắng lợi chung đó, là sự giúp đỡ to lớn, hiệu quả của các nước xã hội chủ nghĩa, của Trung Quốc, sự tạo điều kiện thuận lợi của chính phủ và nhân dân Cam-pu-chia… trong các lĩnh vực đào tạo nhân lực, đóng tàu, viện trợ vũ khí trang thiết bị, cho sử dụng bến cảng để tiếp nhận hàng, từ đó vận chuyển thẳng vào miền nam, vận chuyển quá cảnh qua cảng Xi-ha-núc-vin của Cam-pu-chia sau đó chuyển bằng đường bộ nước bạn vào miền Tây Nam Bộ, v.v.
Trong các hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ đó, Đảng Cộng sản, Chính phủ, Quân đội và nhân dân Trung Quốc trực tiếp giúp ta nhiều nhất và rất hiệu quả. Từ năm 1954, hàng chục cán bộ, công nhân của ta được sang học tại Trường chuyên nghiệp đóng tàu Thượng Hải (Trung Quốc). Trong số này, có đồng chí Trịnh Xương, sau năm năm học, với vốn liếng, kinh nghiệm tích lũy được, đồng chí trở về nước trở thành cán bộ chủ chốt của ngành đóng tàu Việt Nam. Đồng chí từng là Trưởng phòng thiết kế, thuộc Cục Cơ khí (Bộ Giao thông vận tải), Trưởng ban thiết kế, “kiến trúc sư trưởng” của hầu hết các con tàu không số làm nhiệm vụ vận chuyển người, vũ khí, hàng hóa vào miền nam… Từ những thuyền vỏ gỗ nhỏ, trọng tải năm đến bảy tấn, tốc độ chậm, được đóng theo kiểu tàu đánh cá ở các tỉnh trung và Nam Trung Bộ cuối những năm 1959, đầu 1960, theo chủ trương của Bộ Quốc phòng, cán bộ, công nhân Xưởng đóng tàu 3 (Hải Phòng) mày mò nghiên cứu, đóng được các con tàu vỏ gỗ hai đáy, sức chở 35 tấn, rồi đến các con tàu vỏ sắt trọng tải 100 tấn, tốc độ nhanh hơn, phục vụ yêu cầu ngày càng tăng của chiến trường và đối phó với các hành động bao vây, truy đuổi của kẻ thù.
Trong số các tàu sắt của Đoàn 759, sau đổi là Đoàn 125 (24-1-1964), có nhiều tàu của ta do các xưởng đóng tàu của Trung Quốc đóng giúp, vì nước bạn có điều kiện về kỹ thuật thiết kế, trình độ tay nghề, chất lượng tàu bảo đảm hơn. Đây là nhu cầu khách quan để nâng cao năng lực vận chuyển trong những chuyến đi biển xa, dài ngày, có thể chống chọi được sóng gió cấp bảy, cấp tám, trong khi khả năng đóng tàu của ta chưa thể đáp ứng được.
Một trong những thí dụ cụ thể về sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với bộ đội Hải quân của ta nói chung, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 125 nói riêng là đợt tiếp nhận bốn tàu vận tải quân sự trên đất bạn. Đại tá Trần Thế Dân, hiện công tác tại Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, là một trong số gần 50 người sang tiếp nhận tàu của Trung Quốc, nhớ lại: Đầu tháng 4-1972, Quân chủng Hải quân giao cho Đoàn 125 (lúc đó đóng tại Trạm Giang, Hải Nam, Trung Quốc), tổ chức đoàn tiếp nhận tàu do nước bạn đóng giúp tại thành phố Quảng Châu. Đây vừa là đợt tiếp nhận, vừa là lớp học tại chỗ về cách sử dụng và đưa tàu về đơn vị. Đoàn Việt Nam được cán bộ của Hạm đội Nam Hải (Trung Quốc) đón tiếp nhiệt tình, bố trí ăn ở tại khách sạn. Trong đợt này, Hạm đội Nam Hải bàn giao cho ta bốn tàu chở hàng quân sự. Mỗi tàu có chiều dài khoảng 50 m, được đóng theo dạng tàu đánh cá, có hai khoang chứa hàng rộng, với cả cần cẩu hàng ở từng khoang. Tàu được thiết kế hợp lý cho tác nghiệp của nhân viên kỹ thuật và thủy thủ; được trang bị các loại súng 12,7 mm, 14,5 mm, trang bị cá nhân có súng AK, B40, B41… Sau khi tiếp nhận tàu, nước bạn nhiệt tình hướng dẫn chuyên môn cả lý thuyết và thực hành, sửa chữa cho từng người để có thể sử dụng thành thạo máy móc và các tính năng kỹ thuật trên tàu; kể cả việc phải học chéo một số loại máy khác nhau như báo vụ, đo sâu, các việc trên mặt boong… để có thể hỗ trợ lẫn nhau khi cần thiết. Kết thúc nửa tháng học hỏi, cả bốn tàu tổ chức rời Quảng Châu về nước nhận nhiệm vụ mới.
Các con tàu nước bạn giúp lần đó cùng với các con tàu khác đã có hàng chục, hàng trăm chuyến đi vào nam ra bắc, vận chuyển hàng chục nghìn tấn hàng các loại và chuyên chở hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ cho tiền tuyến lớn miền nam. Đặc biệt, khi đế quốc Mỹ thả mìn và thủy lôi phong tỏa các cửa sông, cửa biển ở miền bắc (từ đầu tháng 5-1972), gây nhiều khó khăn cho việc nhận và chuyên chở của ta, Trung Quốc cho ta sử dụng một số cảng ở tỉnh Quảng Châu, đảo Hải Nam để tiếp tục nhận hàng viện trợ của các nước, trong đó có nhiều hàng của Trung Quốc để chở vào miền nam, là một sự giúp đỡ quý báu, đáng trân trọng. Việc chính phủ Cam-pu-chia cho phép ta nhận một số lượng lớn hàng từ cảng Xi-ha-núc-vin, sau đó quá cảnh qua đất Cam-pu-chia vào Việt Nam, cũng góp phần giảm bớt khó khăn cho ta trên cả tuyến đường biển cũng như đường bộ.
Sự giúp đỡ của quốc tế đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống đế quốc Mỹ, góp phần rất quan trọng làm nên thắng lợi cuối cùng, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất Tổ quốc. Trong đó, sự giúp đỡ của các nước, đặc biệt là của Trung Quốc, đối với con đường vận chuyển trên biển mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một thí dụ tiêu biểu.
Ý kiến ()