Số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành gỗ giảm 36%
Do ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, năm 2020 các dự án đầu tư FDI vào ngành gỗ tiếp nhận 63 dự án mới với 372,68 triệu USD, giảm 36% về số dự án và 49% về vốn đầu tư so với năm ngoái.
Do ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, năm 2020, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành gỗ giảm cả về số lượng và vốn đầu tư ở cả ba hình thức đầu tư mới, tăng vốn và góp vốn mua cổ phần.
Cụ thể, về đầu tư mới ngành gỗ tiếp nhận 63 dự án mới với 372,68 triệu USD, giảm 36% về số dự án và 49% về vốn đầu tư so với năm ngoái.
Đây là kết quả nghiên cứu của Tổ chức Forest Trends, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFOREST), Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ Thành phố Hồ Chí Minh (HAWA), Hiệp hội Chế biến gỗ tỉnh Bình Dương (BIFA) và Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Bình Định (FPA Bình Định).
Các dự án đầu tư vào ngành gỗ này đến từ 14 quốc gia và vùng lãnh thổ, dẫn đầu trong danh sách các quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc… Quy mô vốn bình quân của mỗi dự án FDI khoảng 5,91 triệu USD/dự án, giảm 19% so với năm ngoái.
Về góp vốn mua cổ phần, năm 2020 có 122 lượt góp vốn mua cổ phần từ các doanh nghiệp ngoại, với số vốn góp 244,80 triệu USD, giảm 57% về số lượt và 23% về vốn góp so với năm trước.
Về tăng vốn, các dự án FDI có 52 lượt tăng vốn, với tổng vốn tăng 193,64 triệu USD, tăng 73% về số lượt, nhưng giảm 3% về số vốn so với năm trước đó và tăng vốn chủ yếu ở mảng chế biến gỗ.
Cũng như các năm trước, chế biến gỗ là nhóm hàng nhận được nhiều dự án đầu tư FDI mới, tiếp đến là phụ kiện ngành gỗ, thương mại gỗ và sản phẩm gỗ, gỗ dán, đồ chơi gỗ và bao bì. Các dự án tập trung vào chế biến gỗ năm 2020 có 41 dự án, với tổng vốn đầu tư 274,81 triệu USD, chiếm 65% về số dự án và 74% về số vốn đầu tư. Giường, tủ bàn, ghế và sofa gỗ là sản phẩm được chú trọng đầu tư nhiều trong nhóm này.
Theo ông Tô Xuân Phúc, Tổ chức Forest Trends, đây là các mặt hàng chứa đựng các yếu tố rủi ro về lẩn tránh thuế nhập khẩu từ Mỹ.
Mặc dù FDI hiện là bộ phận không thể tách rời của ngành gỗ, nhưng một số hoạt động đầu tư FDI ẩn chứa rủi ro lớn và điều này đã và đang làm tổn hại tới ngành. Trong những năm gần đây, đặc biệt bắt đầu từ thời điểm căng thẳng thương mại Mỹ-Trung Quốc diễn ra, tình trạng đầu tư chui, đầu tư núp bóng đã xuất hiện trong ngành, mang lại những rủi ro rất lớn cho ngành.
“Tình trạng này nếu không được kiểm soát chặt sẽ có thể mang lại những hậu quả nghiêm trọng cho toàn ngành trong tương lai. Bởi, hiện Mỹ là thị trường xuất khẩu quan trọng nhất cho ngành gỗ Việt Nam,” ông Tô Xuân Phúc khuyến cáo.
Nhận biết được tính nghiêm trọng của tình trạng đầu tư chui, đầu tư núp bóng, các cơ quan chức năng đã và đang nỗ lực kiểm soát tình hình và đưa ra các biện pháp giảm rủi ro. Mới đây, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã gửi văn bản tới Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành nhằm kêu gọi kiểm soát chặt chẽ đối với các hành vi chống gian lận xuất xứ đối với các sản phẩm gỗ.
Văn bản đề nghị chính quyền các tỉnh thành kiểm tra các dự án đầu tư FDI để giảm rủi ro trong gian lận xuất xứ, ưa tiên lựa chọn các dự án có tính vượt trội về công nghệ, tham vấn với các hiệp hội gỗ về các dự án đầu tư, xem xét kỹ các dự án đầu tư sản xuất các mặt hàng có yếu tố rủi ro gian lận.
Về xuất khẩu, các doanh nghiệp khối FDI tiếp tục thể hiện tính vượt trội so với khối các doanh nghiệp nội địa. Khối FDI có 653 doanh nghiệp trực tiếp tham gia xuất khẩu, chiếm 18% trong tổng số doanh nghiệp xuất khẩu, với kim ngạch đạt 6 tỷ USD, chiếm 51% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả ngành.
So sánh với con số 2.676 doanh nghiệp với 5,9 tỷ USD về kim ngạch xuất khẩu của khối doanh nghiệp nội địa cho thấy các doanh nghiệp FDI đã vượt xa doanh nghiệp nội địa về quy mô xuất khẩu.
Theo ông Tô Xuân Phúc, sự vượt trội này có thể là do sự khác biệt về quy mô sản xuất, trình độ công nghệ và quản lý, quy mô vốn đầu tư, tiếp cận thị trường của các doanh nghiệp FDI so với doanh nghiệp nội địa. Cho đến nay, chưa có đánh giá hoặc nghiên cứu nào nhìn vào các khía cạnh này.
Theo các hiệp hội trong ngành gỗ, sự vượt trội của các doanh nghiệp FDI hoạt động trong ngành cần được tổng kết và lấy đó làm nền tảng để tạo hiệu ứng lan tỏa tới các doanh nghiệp nội địa. Để lan tỏa cần môi trường cơ chế và chính sách phù hợp cho phép việc trao đổi thông tin và kinh nghiệm giữa khối FDI và khối doanh nghiệp trong nước.
Bởi vậy, cơ chế chính sách đối với ngành hiện nay nên cho phép các doanh nghiệp FDI là thành viên chính thức của các hiệp hội gỗ, thông qua đó, các ý kiến đóng góp về chính sách cho ngành từ khối này được lắng nghe, từ đó tạo ra các chính sách bao quát hơn.
Điều này giúp nâng tầm doanh nghiệp nội địa tiệm cận gần hơn đối với các doanh nghiệp FDI. Tạo một thực thể thống nhất giữa 2 khối cũng sẽ góp phần định vị và giảm thiểu các rủi ro trong các hoạt động đầu tư FDI tốt hơn, đồng thời sẽ góp phần xây dựng một ngành gỗ Việt bền vững trong tương lai./.
Ý kiến ()