Hướng làm giàu của đồng bào dân tộc thiểu số
Trong số hơn 2.200 trang trại hiện có của tỉnh Gia Lai thì chủ trang trại là nông dân chiếm đến 81,6%, người đồng bào dân tộc thiểu số chiếm khoảng 1 đến 2%, còn lại là các thành phần khác. Điều này cho thấy, người nông dân ở Gia Lai đã là lực lượng tiên phong và nhạy bén khi tiếp cận với nền sản xuất mới. Gia Lai, tỉnh đất rộng người thưa, được thiên nhiên ưu đãi bằng chất đất ba-dan màu mỡ rất thuận lợi cho các loại cây công nghiệp dài ngày, như cà-phê, cao-su, hồ tiêu, điều và chăn nuôi đại gia súc… chính vì vậy phát triển KTTT là con đường ngắn nhất để người nông dân xóa đói, giảm nghèo, vươn lên ổn định cuộc sống. Từ việc xác định đúng đắn vai trò của KTTT, những năm qua, cùng với cơ chế chính sách chung của Nhà nước, tỉnh đã đầu tư kinh phí hình thành những vùng kinh tế trang trại chuyên sâu và tập trung, như cây hồ tiêu ở Chư Sê, mía ở An Khê, Kbang, Ayun Pa; chăn nuôi bò ở Krông Pa và đi liền với việc này là xây dựng các nhà máy phục vụ cho chế biến và thu hoạch như các nhà máy chế biến hạt điều ở Krông Pa, bông vải và hồ tiêu sạch ở Chư Sê; mía đường ở An Khê và Phú Thiện… thu hút nhiều người nông dân mạnh dạn đầu tư mở rộng phát triển KTTT.
Mặc dù đã được cán bộ Đoàn xã Ia Blang (Chư Sê, Gia Lai) giới thiệu từ trước nhưng chúng tôi vẫn ngỡ ngàng khi đứng trước ngôi nhà của Nguyễn Phước Thiện sinh năm 1975, được xây cạnh đường với khoảng sân rộng dùng để phơi hồ tiêu. Thiện ở Thừa Thiên – Huế, năm 1977 theo gia đình vào xây dựng kinh tế mới. Ban đầu, chỉ trồng ngô, tỉa đậu, tỉa lúa trong mùa mưa, còn lại sáu tháng vất vả với cái nắng và đói giáp hạt, nhiều người đã thoái chí bỏ về. Gia đình Thiện đông anh em, về lại quê cũng khó nên bàn bạc và quyết định ở lại. Rồi cái khó cũng qua đi với phương châm lấy ngắn nuôi dài, anh em Thiện đã chọn cây hồ tiêu làm cây mũi nhọn. Tích cóp qua hằng năm đến nay anh đã có 10.000 trụ, trong đó 8.000 trụ đã cho thu hoạch, tính bình quân vụ năm vừa qua với 4,5 kg/trụ, giá hơn 60.000 đồng/kg, đã cho thu hoạch hơn hai tỷ đồng. Đó là chưa kể khoản thu hơn bốn ha cà-phê với vài trăm triệu đồng, thu nhập từ tiêu của gia đình anh đã lên đến 700 – 800 triệu đồng sau khi trừ chi phí. Vợ chồng anh Nguyễn Xuân Khanh quê Hưng Hà (Thái Bình) vào lập nghiệp ở khối phố 10, thị trấn Phú Túc (huyện Krông Pa) theo diện đi xây dựng vùng kinh tế mới. Hơn 10 năm dù đã rất chịu khó chí thú làm ăn nhưng đói khổ vẫn đeo đuổi. Năm 2005, với sự hướng dẫn của Hội Nông dân huyện, anh được vay vốn của Ngân hàng chính sách xã hội. Cùng với nghị lực, công sức và quyết tâm thoát nghèo, khu đất gò đồi bạc màu của gia đình ngày nào, giờ đã là một trang trại rộng gần 10 ha với bạt ngàn mầu xanh của cây điều, cam, bưởi, chuối cùng với đàn bò hơn 30 con và đàn dê gần 400 con. Anh Khanh cho biết, không chỉ được giúp đỡ về vốn vay của ngân hàng mà việc tư vấn kỹ thuật khuyến nông, khuyến lâm của các cơ quan chuyên môn đã giúp gia đình anh xây dựng trang trại một cách khoa học: Chỗ đất thấp thì đào ao nuôi cá; những nơi bằng phẳng trồng điều; chỗ gò, đồi trồng cây ăn trái; vùng trũng ven suối thì trồng chuối và cỏ voi để lấy nguồn thức ăn chăn nuôi gia súc… Cũng chính nhờ sự tận tình tư vấn kỹ thuật này, anh đã xây dựng trang trại của mình thành một mô hình sản xuất nông nghiệp khép kín thu nhỏ, đem về mỗi năm gần 100 triệu đồng sau khi đã khấu trừ chi phí sản xuất. Đó là hai trong nhiều chủ trang trại thành đạt từ phát triển KTTT. Ở Gia Lai bây giờ có khá nhiều người cũng từ KTTT mà trở thành những tỷ phú nông dân như ông Diệp Năng Thâm, chủ Doanh nghiệp tư nhân Tiểu Phụng ở thôn 2, xã Biển Hồ (TP Plây Cu) đang sở hữu trang trại 11,5 ha nuôi cá sấu, ba ba, đà điểu. Năm 2008, ông còn đầu tư 20 tỷ đồng xây dựng nhà máy chế biến thức ăn gia súc có công suất 50 tấn/ngày, ngoài việc cung ứng đủ thức ăn cho trang trại của mình còn bảo đảm 30% lượng thức ăn phục vụ cho ngành chăn nuôi đang phát triển trên địa bàn tỉnh; ông Trần Anh Kiệt từ Khánh Hòa lên đã đấu thầu 2.400 mặt nước hồ Ayun Hạ để nuôi cá nước ngọt, hằng năm khai thác hơn 300 tấn cá các loại, doanh thu bình quân một tỷ đồng/năm…
Phát triển KTTT góp phần giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Qua tìm hiểu, hiện nay cứ bình quân 3 đến 4 lao động/trang trại thì đã có gần 8.000 lao động nông thôn được tạo việc làm thường xuyên. Ông Đặng Ngọc Khôi, Trưởng ban Kinh tế – Xã hội Hội Nông dân tỉnh Gia Lai cho biết: Hầu hết các trang trại hiện nay sử dụng lao động mang tính thời vụ. Ít nhất mỗi trang trại giải quyết việc làm 30-40 lao động, nhiều thì 60-70 lao động, thậm chí cả trăm lao động; tiền công bình quân 80.000 đồng/ngày, thời điểm chính vụ được trả 100-120 nghìn đồng/ngày. Có thể nói, mô hình kinh tế này đã giải quyết việc làm, tăng thu nhập đáng kể cho lao động địa phương. Ở một góc nhìn khác, với Gia Lai, tỉnh miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm đến 49% số dân, thì phát triển KTTT còn mang nhiều ý nghĩa thiết thực về mặt xã hội: Nếu trước đây bà con chỉ quen sản xuất nông nghiệp theo phương thức canh tác lạc hậu “phát, đốt, chọc, trỉa” thì nay, nhờ làm công trong các trang trại, họ đã có điều kiện tiếp cận với tiến bộ khoa học; làm quen với máy móc phục vụ sản xuất và tách ra thành lập trang trại riêng với vai trò người làm chủ. Con số 1 đến 2% chủ trang trại là người dân tộc thiểu số hầu hết đi lên bằng con đường này.
Để kinh tế trang trại phát triển bền vững
Từ thực tế phát triển KTTT những năm qua có thể khẳng định KTTT ở Gia Lai nói riêng phát triển đúng hướng đã mang lại hiệu quả thiết thực cả về mặt kinh tế lẫn mặt xã hội. Việc sử dụng có hiệu quả đất đai, tạo nên sự phát triển trong sản xuất nông nghiệp. Từ KTTT người nông dân tích lũy được vốn, kinh nghiệm trong quản lý và sản xuất, tích tụ được ruộng đất. Mặt khác, cũng từ KTTT đã thúc đẩy việc hình thành các nhà máy chế biến tập trung tạo điều kiện thu hút lao động nông thôn, tạo ra sự phân công lao động mới, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo và thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, để KTTT ở Gia Lai thật sự trở thành một trong những động lực thúc đẩy kinh tế phát triển theo hướng đa dạng và bền vững thì vẫn còn nhiều vấn đề cần xử lý. Chính phủ đã có Nghị định số 03/NĐ-CP về phát triển KTTT; một số thông tư liên tịch quy định cụ thể tiêu chí cũng như các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển KTTT nhưng ở Gia Lai việc triển khai còn quá chậm, do vậy cho đến nay, trong tổng số hơn 2.000 trang trại hiện đang hoạt động thì đã có đến 50-60% số trang trại chưa được cấp quyền sử dụng đất, khiến cho nhiều chủ trang trại gặp khó khăn trong việc mở rộng quy mô sản xuất, vay vốn, tiêu thụ sản phẩm… Chi cục trưởng Chi cục Hợp tác xã và Phát triển nông thôn Gia Lai Phạm Văn Long cho biết, đã có văn bản đề nghị UBND tỉnh cho phép thành lập Hiệp hội trang trại, các chi hội, câu lạc bộ hoặc HTX trang trại làm chức năng cung cấp thông tin, hướng dẫn kỹ thuật, dự báo thị trường và làm chức năng lo đầu ra cho sản phẩm. Về lâu dài, KTTT ở Gia Lai cần có hướng chỉ đạo và biện pháp, khắc phục sự mất cân đối về loại hình trang trại hiện nay, số trang trại trồng trọt chiếm số lượng khá lớn dẫn đến việc diện tích đất bị chiếm dụng lớn. Trao đổi ý kiến với chúng tôi, đồng chí KPă Thuyên, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh cho biết, trước mắt là tập trung thực hiện quyết định của Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ sản phẩm cho người sản xuất thông qua hợp đồng trách nhiệm với các doanh nghiệp. Thông qua mối liên kết “bốn nhà”, nhằm tạo điều kiện cho người sản xuất yên tâm về đầu ra cho các sản phẩm; đưa vật tư nông nghiệp đến tay người sản xuất không qua khâu trung gian, tránh thất thoát, lãng phí… Qua nghiên cứu thực tế phát triển KTTT ở Gia Lai, tỉnh tập trung chỉ đạo theo ba vùng cụ thể. Đối với vùng ven đô, tập trung phát triển các trang trại chăn nuôi quy mô công nghiệp, các trang trại kinh doanh rau, cây ăn quả… theo hướng thâm canh, công nghệ cao, sử dụng ít đất. Đối với vùng dân cư phát triển, tập trung khai hoang đất trống đồi núi trọc, chăn nuôi mang tính quảng canh, nhà nước chỉ cần có cơ chế khuyến khích hỗ trợ về chính sách và kinh phí cho các đơn vị sản xuất gắn với mở các cơ sở đào tạo nghề tạo việc làm và tuyển dụng lao động, ưu tiên cho người tại chỗ và lao động người dân tộc thiểu số. Đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, chủ trương bảo đảm đủ đất sản xuất, hỗ trợ hình thành trang trại mẫu theo địa bàn xã và cụm xã, trên cơ sở này từng bước giúp đồng bào chuyển dần từ phương thức canh tác tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hóa. Ngoài ra, ngành cũng đề xuất tham mưu cho UBND tỉnh triển khai các chính sách hỗ trợ, như cho vay vốn ưu đãi, giảm thuế tỷ lệ thuận với việc tuyển dụng lao động, tạo việc làm, hỗ trợ kỹ thuật… nhằm tạo mọi điều kiện cho KTTT phát triển đúng hướng, tích cực góp phần xóa đói, giảm nghèo.
Ý kiến ()