Phát triển công nghiệp hỗ trợ, thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế tỉnh Bắc Ninh
Như tin đã đưa, ngày 28-9, tại TP Bắc Ninh, Tỉnh ủy Bắc Ninh phối hợp với Báo Nhân Dân tổ chức cuộc hội thảo khoa học với chủ đề: "Phát triển công nghiệp hỗ trợ, thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế tỉnh Bắc Ninh" dưới sự chủ trì của các đồng chí: THUẬN HỮU, Ủy viên Trung ương Ðảng, Tổng Biên tập Báo Nhân Dân, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam; TS TRẦN VĂN TÚY, Ủy viên Trung ương Ðảng, Bí thư tỉnh ủy Bắc Ninh; TS PHẠM XUÂN ĐƯƠNG, Ủy viên Trung ương Ðảng, Phó trưởng ban thường trực Ban Kinh tế Trung ương; PGS, TS TRẦN ÐÌNH THIỆN, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam. Chúng tôi xin tổng thuật nội dung cuộc hội thảo.
– Như tin đã đưa, ngày 28-9, tại TP Bắc Ninh, Tỉnh ủy Bắc Ninh phối hợp với Báo Nhân Dân tổ chức cuộc hội thảo khoa học với chủ đề: “Phát triển công nghiệp hỗ trợ, thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế tỉnh Bắc Ninh” dưới sự chủ trì của các đồng chí: THUẬN HỮU, Ủy viên Trung ương Ðảng, Tổng Biên tập Báo Nhân Dân, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam; TS TRẦN VĂN TÚY, Ủy viên Trung ương Ðảng, Bí thư tỉnh ủy Bắc Ninh; TS PHẠM XUÂN ĐƯƠNG, Ủy viên Trung ương Ðảng, Phó trưởng ban thường trực Ban Kinh tế Trung ương; PGS, TS TRẦN ÐÌNH THIỆN, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam. Chúng tôi xin tổng thuật nội dung cuộc hội thảo.
Bức tranh công nghiệp hỗ trợ ở nước ta và của tỉnh Bắc Ninh
Phát biểu đề dẫn cuộc hội thảo, đồng chí Thuận Hữu, Ủy viên T.Ư Ðảng Tổng Biên tập Báo Nhân Dân, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam nhấn mạnh: Công cuộc đổi mới, cải cách kinh tế mạnh mẽ trong gần ba thập kỷ vừa qua đã mang lại cho chúng ta những thành quả bước đầu đáng phấn khởi. Những năm gần đây, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam tăng nhanh. Từ mức gần như bằng không năm 1986, nguồn vốn FDI đăng ký năm 2012 đã đạt hơn 200 tỷ USD với hơn 14 nghìn dự án của 90 quốc gia và vùng lãnh thổ đang hoạt động. Các dự án này đã góp phần quan trọng bổ sung nguồn vốn, chuyển giao công nghệ và phương thức sản xuất, kinh doanh hiện đại, khai thác tối đa các tiềm năng, giải quyết việc làm cho hàng trăm nghìn lao động.
Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của nước ta những năm qua mới chỉ theo chiều rộng, chủ yếu dựa vào nguồn vốn bên ngoài và nguồn nhân lực giá rẻ. Ðiều đó cho thấy, kinh tế Việt Nam tăng trưởng thiếu bền vững và chất lượng tăng trưởng thấp. Ðể đẩy mạnh hơn nữa việc thu hút nguồn vốn FDI, bảo đảm chất lượng tăng trưởng, ngoài tiếp tục hoàn thiện các thể chế, chính sách; đầu tư xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, một lĩnh vực có vai trò then chốt rất cần được quan tâm, đó là phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT) theo hướng tập trung vào một số ngành, lĩnh vực trọng điểm. Có thể nói, nền tảng của sản xuất công nghiệp chính là CNHT, sản xuất từ nguyên vật liệu đến chế tạo các linh kiện, phụ kiện,… cung cấp cho ngành công nghiệp lắp ráp thành sản phẩm cuối cùng. Nếu CNHT kém phát triển, chẳng những sẽ lệ thuộc lớn vào nhập khẩu linh, phụ kiện, tăng chi phí đầu vào mà còn tiềm ẩn nhiều rủi ro khác. Trong quá trình hội nhập, nếu không phát triển được ngành CNHT tương ứng, sẽ không đủ sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư FDI và nền kinh tế quốc gia sẽ ngày càng tụt hậu. Từ những đánh giá, nhận định nói trên, đồng chí Thuận Hữu đề nghị các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý tập trung tham luận một cách thẳng thắn và cởi mở, nhìn nhận một cách toàn diện, tổng quan bức tranh về CNHT ở nước ta thời gian qua, những việc đã làm và chưa làm được, đồng thời đóng góp ý kiến, nêu những giải pháp, chiến lược, vừa cụ thể vừa mang tính lâu dài, giúp Nhà nước cũng như các bộ, ngành liên quan và tỉnh Bắc Ninh hoạch định, có cơ chế, chính sách “hỗ trợ” ngành CNHT phát triển một cách phù hợp và hiệu quả.
Trên tinh thần này, tham luận tại hội thảo của các đại biểu: TS Trần Văn Túy; TS Trần Ðình Thiên; GS, TSKH Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp đầu tư nước ngoài; TS Nguyễn Quốc Chung, Giám đốc Sở Kế hoạch và Ðầu tư Bắc Ninh; TS Phạm Thu Hằng, Tổng thư ký Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đều có những nhận định, đánh giá đúng thực tế việc phát triển CNHT trong thời gian qua. Các ý kiến đều nhất trí cho rằng, chúng ta đã có ý tưởng thiết kế phát triển CNHT 15 năm nay, tuy vậy, đến nay CNHT ở nước ta vẫn chỉ là nhỏ, lẻ, chưa đủ sức phục vụ việc phát triển kinh tế đất nước. Hạn chế đó, trước hết là do những hạn chế tầm nhìn chiến lược, chúng ta chưa nhìn ra tầm quan trọng của CNHT, chưa coi nó là công nghiệp nền tảng, công nghiệp công nghệ cao. Ðã có thời kỳ chúng ta coi CNHT là phần phụ (công nghiệp phụ trợ), chưa có quan niệm đúng về công nghiệp hiện đại. Nhiều khu, cụm công nghiệp được xây dựng nhưng chủ yếu thiên về lấp đầy, tăng trưởng về doanh số mà thiếu tính liên kết và ý đồ chiến lược phát triển. Thiếu sự kết nối giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài.
Bắc Ninh là một tỉnh có diện tích nhỏ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, có nhiều làng nghề truyền thống, lâu đời và sớm hình thành nhiều khu công nghiệp tập trung có quy mô lớn. Thực hiện đường lối đổi mới và CNH, HÐH do Ðảng khởi xướng và lãnh đạo, ngay sau khi tái lập, Bắc Ninh đã sớm xác định và thực hiện mục tiêu chiến lược là phấn đấu đến năm 2015 cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại. Lựa chọn tạo bước ngoặt mang tính đột phá là quy hoạch và xây dựng các khu công nghiệp tập trung; cụm công nghiệp làng nghề, đa nghề. Bắc Ninh là điểm đến của nhiều nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có những tập đoàn lớn có thương hiệu toàn cầu như: Samsung, Canon, Nokia… Tính đến 31-12-2012, đã có 343 dự án FDI (còn hiệu lực) được cấp phép đầu tư với tổng vốn đăng ký 4.788 triệu USD; trong đó có 284 dự án đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 82,8%) với tổng vốn đầu tư 4.215 triệu USD (chiếm 88%). Tính đến 31-12-2012, toàn tỉnh Bắc Ninh có 126 doanh nghiệp đang hoạt động trong các ngành CNHT (theo danh mục được ban hành tại Quyết định số 1483/QÐ-TTg ngày 26-8-2011 của Thủ tướng Chính phủ), chiếm 10,1% số doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp chế biến, chế tạo toàn tỉnh, gấp hai lần năm 2010; trong đó có 79 doanh nghiệp FDI, chiếm 39,9% và gấp 2,1 lần năm 2010. Tuy vậy, CNHT ở Bắc Ninh mới chỉ ở giai đoạn phát triển sơ khai, manh mún, kém phát triển, chưa đáp ứng được nhu cầu của các ngành công nghiệp chế tạo, lắp ráp ô-tô, xe máy; công nghiệp dệt may, giày da. Ðặc biệt, ngành chế tạo thép (đúc phôi) vốn là ngành truyền thống của tỉnh nhưng chưa được hỗ trợ, định hướng của Nhà nước nên phát triển tự phát, sản phẩm chủ yếu để sản xuất vật liệu cho ngành xây dựng trong nước. Các doanh nghiệp ngành CNHT vẫn phụ thuộc vào nguyên liệu, linh kiện từ nước ngoài với tỷ lệ ngày càng gia tăng. Các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm hỗ trợ chủ yếu phục vụ các tập đoàn đa quốc gia trên địa bàn mà chưa mở rộng ra thị trường quốc tế, thiếu sự gắn kết giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong việc sản xuất các sản phẩm hỗ trợ, còn nghèo nàn về chủng loại, kiểu dáng, mẫu mã đơn điệu, giá lại cao hơn nhiều sản phẩm cùng loại nhập khẩu, nhân lực phục vụ công nghiệp hỗ trợ chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng.
Công nghiệp hỗ trợ cấu thành nền tảng của cấu trúc công nghiệp hiện đại
Theo TS Trần Ðình Thiên, cho đến nay, ở Việt Nam chưa có một nền CNHT đúng nghĩa. Nhiều năm qua, vẫn chưa có một Nghị định về CNHT. Một nghị định hoặc luật là khởi điểm tất yếu trên con đường phát triển CNHT, thế nhưng một thời gian rất dài, việc xây dựng nghị định vẫn không đáp ứng được yêu cầu. Những quan điểm lệch lạc về CNHT cần phải được nắn lại, bởi các ngành CNHT cấu thành nền tảng của cấu trúc công nghiệp hiện đại. Về cơ bản, nó phải là những ngành hoạt động dựa trên công nghệ và lao động kỹ năng cao. Từ quan niệm đúng, mới có định hướng chiến lược đúng, sau đó mới có thể thiết kế các chính sách và giải pháp thực thi đúng. Xét về giá trị, CNHT sản xuất ra khoảng 70 – 80% tổng giá trị sản xuất công nghiệp chế tạo. Ở các tập đoàn đa quốc gia, cứ 100 doanh nghiệp (DN) trong một chuỗi tham gia chế tạo sản phẩm cuối cùng, có khoảng 95 DN hoạt động trong lĩnh vực CNHT, chỉ có năm DN lắp ráp – sản xuất sản phẩm cuối cùng. Ðiểm đặc biệt quan trọng là CNHT sản xuất phần lớn giá trị gia tăng trong công nghiệp nói chung.
GS, TS Ngô Thắng Lợi (Trường đại học Kinh tế quốc dân) bày tỏ lo ngại: Một thời gian dài, do hạn chế từ nhiều khía cạnh, tăng trưởng nước ta phải “nhờ vào gia công”, vì vậy luôn bị thua thiệt trong phân công hợp tác quốc tế và hiệu quả thấp, không ổn định trong chuỗi giá trị toàn cầu. Xét về hiệu quả trong chuỗi giá trị, phần “giá trị gia công” chiếm tỷ trọng rất nhỏ và ngày càng nhỏ theo xu hướng phát triển của khoa học công nghệ. Nếu ví nền kinh tế như một dòng sông, các ngành công nghiệp sản xuất hàng hóa trung gian sẽ là thượng nguồn, còn sản xuất hàng tiêu dùng là hạ nguồn. Theo nguyên lý, nước phải chảy từ thượng nguồn về hạ nguồn nhưng nền kinh tế gia công ở Việt Nam cho thấy dòng sông kinh tế đang bị “lụt” ở hạ nguồn và “hạn” ở thượng nguồn. Ðể nâng cao hiệu quả tăng trưởng ngành công nghiệp, phát triển công nghiệp sản xuất nguyên liệu, sản phẩm hỗ trợ (thượng nguồn) phải là con đường Việt Nam cần lựa chọn. Trong điều kiện cụ thể ở nước ta, phát triển CNHT không thể dàn trải cho tất cả các ngành, mà cần phải chia thành từng nhóm để xác định bước đi thích hợp với trọng tâm theo từng giai đoạn phát triển.
Cùng chung quan điểm, GS, TSKH Nguyễn Mại cho rằng: Trong thế giới hiện đại, khi mạng sản xuất và phân phối mang tính khu vực và toàn cầu thì mỗi nước cần dựa vào lợi thế so sánh của mình để tập trung đầu tư phát triển một số CNHT đạt giá trị sản xuất và tỷ trọng xuất khẩu chiếm thị phần chi phối ở khu vực và toàn cầu. Việt Nam không thể phát triển tất cả các ngành CNHT, mà phải lựa chọn một số sản phẩm chủ lực để phát triển thành thương hiệu quốc gia. Cũng không nên máy móc khi đặt vấn đề tỷ lệ nội địa hóa đối với từng loại sản phẩm, mà phải tính đến chi phí, giá thành, chất lượng và hiệu quả kinh tế trong sự phân công và hợp tác theo chuỗi giá trị toàn cầu. Theo GS Nguyễn Mại, trong định hướng phát triển CNHT, Bắc Ninh cần phát huy mạnh mẽ lợi thế “Vùng Thủ đô” để định vị năng lực và cũng định vị nhà đầu tư chiến lược, những sản phẩm hỗ trợ nòng cốt, đó là phát triển những linh kiện hỗ trợ cho sản phẩm của Samsung. Năm 2012, trong số 400 triệu sản phẩm điện thoại di động của Samsung bán trên thị trường toàn cầu, có 120 triệu chiếc được sản xuất tại Bắc Ninh với kim ngạch xuất khẩu 12,2 tỷ USD, chiếm 11% tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Chính vì thế, cần phải có sách lược biến Việt Nam thành công xưởng sản xuất điện thoại di động của toàn cầu và chỉ một mình Bắc Ninh sẽ không thể làm được, cần có sự góp sức chung tay ở tầm vĩ mô, tạo ra một hành lang rộng mở, rà soát, định hướng DN đi sâu nghiên cứu, tổ chức chuỗi sản xuất, cung ứng các sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn của nhà sản xuất – lắp ráp.
Trình bày những nghiên cứu, nhận định của mình về phát triển các khu, cụm công nghiệp ở Việt Nam, TS Nguyễn Ðình Cung, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế T.Ư cho rằng, để ngành CNHT Việt Nam thoát khỏi “kiếp gia công” với hàm lượng giá trị gia tăng thấp, manh mún, chia cắt, các khu, cụm công nghiệp cần thay đổi, hướng đến mô hình tổ chức thành chuỗi, tối ưu hóa sản xuất chứ không chỉ bảo đảm mục tiêu lấp đầy diện tích. TS Trần Ðình Thiên thêm một lần nữa nhấn mạnh: Trong tư duy, phải hình thành quan điểm CNHT nhất thiết phải là công nghiệp công nghệ cao, để có ưu tiên phát triển những ngành chủ lực. Khi các nhà đầu tư Nhật Bản tìm hiểu đầu tư Việt Nam, điều đầu tiên họ quan tâm là những DN cung ứng sản phẩm CNHT ở Việt Nam có đáp ứng được không. Tuy nhiên, một điều đáng buồn là chưa xác định được danh sách các DN chuyên sâu sản xuất linh kiện, phụ kiện, bởi khả năng “biến hình, biến dạng” của DN Việt Nam rất nhanh, cứ lĩnh vực nào có lãi là nhảy sang kinh doanh, không định hình được năng lực chuyên sâu một cách rõ ràng. Vì vậy, phải tổ chức khu công nghiệp theo chuỗi giá trị, tối ưu hóa sản xuất mới phát triển được CNHT ổn định, vững chắc.
Các chuyên gia kinh tế đều thống nhất đánh giá, trong vài năm trở lại đây, việc định hướng và phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao ở Bắc Ninh có thể nói là sự đột phá. Tuy nhiên, để phát triển ngành CNHT ở Bắc Ninh một cách bền vững, có bước đi vững chắc, trước tiên được quy hoạch dài hạn, từng ngành, từng lĩnh vực phải rà soát và đề ra mục tiêu phát triển các sản phẩm hỗ trợ của ngành mình theo phương châm “làm đến đâu chắc đến đó”. Không chỉ ở Bắc Ninh, trong phạm vi và điều kiện hiện tại, chúng ta cần phải xác định rõ ràng “chân dung” những nhóm ngành định hình nên nền công nghiệp Việt Nam. Trong khi mời gọi, thu hút nhà đầu tư, đang tồn tại tình trạng “giành giật” nhà đầu tư giữa các tỉnh với nhau bằng cách “hạ giá, ưu đãi” bằng mọi giá, không tính đến thực lực về khả năng cung ứng hệ thống các sản phẩm đối với nhà đầu tư. Vì thế, để phát triển ổn định, bền vững, điều quan trọng không phải ưu đãi vô hạn, mà phải đẩy mạnh sự liên kết giữa các DN trong vùng với nhau cũng như giữa các DN trong và ngoài nước trong việc sản xuất, cung ứng các sản phẩm hỗ trợ.
Các chuyên gia khẳng định, để có được ngành CNHT ở Bắc Ninh nói riêng cũng như phạm vi cả nước hoạt động hiệu quả, cần xác định lộ trình rõ ràng, phát triển đồng bộ bốn yếu tố quan trọng gồm nguồn nhân lực, công nghệ, tài chính và hệ thống phân phối. Nhân lực là vấn đề sống còn cho phát triển bất cứ một ngành nào, muốn vậy, cần ưu tiên các DN khởi nghiệp, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo cơ chế để thu hút, đào tạo một đội ngũ kỹ sư, công nhân bậc cao có đủ trình độ về kỹ thuật thực hành và thực tiễn, trang bị cho họ kiến thức cần thiết về công nghệ hiện đại. Ðối với vấn đề tài chính (vốn), có thể sử dụng nguồn vốn vay ưu đãi để xây dựng một quỹ tài chính bảo đảm cho việc phát triển CNHT của những ngành đã được chỉ định. Việc chỉ định các ngành cần phát triển là chỉ rõ phạm vi ưu tiên để cụ thể, minh bạch nguồn ngân sách, giúp DN yên tâm đầu tư. Việc tăng nhu cầu nội địa là một trong những việc quan trọng nhất nhằm đẩy mạnh CNHT phát triển. Ðể bảo đảm thu được lợi nhuận cao nhất cũng như xây dựng một thị trường nội địa phát triển, cần quan tâm đến hệ thống phân phối. Hệ thống phân phối có thể cung cấp đầy đủ, dễ dàng những nhu cầu về linh kiện cho những DN có nhu cầu, sẽ góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp phụ trợ. Ðể phát triển công nghệ, cần có sự đóng góp quan trọng của Chính phủ. Trước đây, Nhật Bản đã dành sự ưu tiên lớn từ nguồn ngân sách để phát triển CNHT cho từng ngành. Ở nước ta, Nhà nước cũng cần có những chính sách khuyến khích đủ mạnh để hỗ trợ ngành CNHT, trong đó, việc đổi mới các chính sách ưu đãi dành cho các DN sản xuất các sản phẩm hỗ trợ. Ðồng thời, xem xét hình thành các quỹ đầu tư tài chính cho phát triển CNHT, rà soát năng lực DN Việt Nam để có một “bản đồ” cụ thể và rõ ràng về nguồn nhân lực phục vụ cho công tác điều phối liên kết vùng, phân bổ nguồn lực và cạnh tranh hiệu quả lành mạnh, tránh tình trạng khi xúc tiến đầu tư, DN mạnh ai nấy làm, gây tổn hại cho quyền lợi của chính bản thân mình cũng như đối tác và ảnh hưởng sức mạnh cạnh tranh quốc gia.
Ðịnh hướng và giải pháp phát triển CNHT
TS Trần Ðình Thiên cho rằng, chúng ta cần nghiêm túc rút kinh nghiệm từ phát triển CNHT của các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái-lan… Quá trình hình thành ngành CNHT Nhật Bản hoàn toàn do hệ thống DN tư nhân phát triển. Chính phủ chỉ có những chính sách hỗ trợ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các DN hoạt động và phát huy năng lực, họ đã phát triển theo chiến lược 100% thay thế nhập khẩu, không dùng đầu tư nước ngoài mà chỉ mua công nghệ nước ngoài. Các công ty của Nhật Bản liên kết với nhau theo mô hình gia đình như Nissan, Toyota… Các hãng này có các công ty con liên kết chuyên sản xuất các phụ liệu cần thiết cho công ty mẹ. Mối liên hệ giữa các cấp độ cung cấp sản phẩm hỗ trợ không chỉ được củng cố bằng quan hệ bạn hàng mà còn từ sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật và đôi khi là tài chính của các công ty cấp cao hơn.
Ðối với Hàn Quốc, các chính sách hỗ trợ các DN nhỏ và vừa cũng như ngành CNHT khá quyết liệt. Hàn Quốc chỉ định một số DN lớn phải mua các linh phụ kiện từ các DN nhỏ và vừa có tính mục tiêu. Trong khi đó, Thái-lan có những chính sách cụ thể để khuyến khích phát triển ngành CNHT. Chương trình hỗ trợ liên kết công ty đa quốc gia mua linh phụ kiện của các công ty hỗ trợ trong nước. Thái-lan thành lập Cục phát triển CNHT trực thuộc Vụ xúc tiến công nghiệp của Bộ Công nghiệp nhằm cung cấp các hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo cho các ngành CNHT, thiết kế và phát triển các khuôn cho sản xuất các thiết bị điện tử gia công nhiệt, và xúc tiến phát triển các nhà thầu phụ. Thái-lan đặc biệt coi trọng các doanh nghiệp FDI, nhất là các DN chế tạo từ Nhật Bản. Bên cạnh các chính sách trực tiếp phát triển CNHT, Thái-lan còn có chính sách bổ trợ quan trọng như chính sách phát triển các cụm công nghiệp…
Theo TS Trần Ðình Thiên, để phát triển CNHT thành công, Việt Nam cần có quan điểm và cách hiểu phù hợp về CNHT; xác định đúng vai trò của CNHT trong chiến lược phát triển công nghiệp quốc gia; chủ động tích cực tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu và nâng cao năng lực cạnh tranh; CNHT đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp FDI sẽ thúc đẩy CNHT; phát triển CNHT đồng nghĩa với việc thúc đẩy phát triển khu vực DN nhỏ và vừa; tăng cường mối liên kết giữa các DN tham gia vào CNHT và công nghiệp lắp ráp, chế tạo trong việc phát triển CNHT; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố cơ bản tạo sức thu hút các tập đoàn đa quốc gia, mở rộng thị trường xuất khẩu; phát triển cấu trúc ngành phù hợp, tìm ra một cấu trúc kinh doanh hợp lý là cơ sở để chúng ta lựa chọn định hướng chính sách phát triển CNHT, cũng như các đối tác nước ngoài trong quá trình phát triển.
Chia sẻ về giải pháp phát triển CNHT, TS Nguyễn Ðình Cung; Ths Phan Văn Hùng, nghiên cứu sinh Trường đại học Kinh tế quốc dân nhấn mạnh giải pháp tái cơ cấu ngành, kết hợp với cơ cấu lại vùng, lãnh thổ. Theo đó cần quy hoạch, phát huy lợi thế của từng địa phương, vùng, lãnh thổ để xây dựng và thực hiện các gói giải pháp ưu đãi và hỗ trợ cụ thể trên cơ sở đàm phán, thỏa thuận với các tập đoàn đa quốc gia để thu hút đầu tư của các tập đoàn này vào ngành công nghệ cao, giá trị gia tăng cao, xây dựng mạng sản xuất và chuỗi cung ứng nội địa liên kết với hoạt động sản xuất của các tập đoàn này. Bộ Kế hoạch và Ðầu tư, các bộ, cơ quan, địa phương theo chức năng nhiệm vụ được giao tăng cường sự chỉ đạo, bảo đảm thực hiện hiệu quả các chương trình quốc gia về phát triển, nâng cao chất lượng các DN dân doanh như chương trình hỗ trợ đổi mới và nâng cao năng lực công nghệ đổi mới DN nhỏ và vừa, hỗ trợ nâng cao chất lượng sản phẩm, hỗ trợ kết nối DN, kết nối trường học, viện nghiên cứu; thực hiện các chương trình đồng bộ hỗ trợ phát triển các cụm sản xuất liên ngành đối với các sản phẩm ưu tiên phát triển. Có cơ chế, chính sách phù hợp, nhất là các ưu đãi về thuế và các giải pháp hỗ trợ khác để tập trung phát triển mạng sản xuất và chuỗi cung ứng các sản phẩm cụ thể được ưu tiên phát triển…
Về giải pháp phát triển CNHT tỉnh Bắc Ninh, TS Nguyễn Quốc Chung cho biết, CNHT Bắc Ninh sẽ trở thành ngành kinh tế phát triển với tỷ trọng ngày càng tăng trong cơ cấu GDP của tỉnh, hướng đến công nghệ cao, sản phẩm bảo đảm tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế và Bắc Ninh sẽ trở thành trung tâm công nghiệp điện tử của cả nước và khu vực. Trong thời gian tới, tỉnh sẽ tập trung vào sáu giải pháp chủ yếu. Ðó là xây dựng quy hoạch phát triển CNHT, tập trung vào phát triển CNHT các ngành điện tử, tin học, cơ khí chế tạo; xúc tiến, thu hút và khuyến khích các nhà đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ, đổi mới các chính sách chủ yếu như chính sách đất đai, chính sách tín dụng, tạo thuận lợi cho các DN hỗ trợ trong đầu tư hiện đại hóa máy móc, thiết bị hay sản xuất các sản phẩm thay thế nhập khẩu cung cấp cho DN khác; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành CNHT; tăng cường sự liên kết giữa các DN trong quá trình phát triển công nghiệp hỗ trợ, đẩy mạnh sự liên kết giữa các DN trong nước với nhau cũng như giữa các DN trong và ngoài nước trong việc sản xuất, cung ứng các sản phẩm hỗ trợ; tiếp tục đẩy mạnh hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho CNHT phát triển. Ðây là một trong những giải pháp hết sức quan trọng trong việc đẩy mạnh thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào Bắc Ninh để sản xuất các sản phẩm hỗ trợ; có bộ phận theo dõi chỉ đạo việc thực hiện quy hoạch phát triển CNHT.
GS, TSKH Nguyễn Mại cho rằng, Việt Nam không thể phát triển bất cứ CNHT nào, không phải ngành nào cũng làm CNHT mà Việt Nam phải lựa chọn một số sản phẩm chủ lực để phát triển thành thương hiệu quốc gia. Không nên máy móc khi đặt vấn đề tỷ lệ nội địa hóa đối với từng loại sản phẩm như ô-tô, xe máy, mà phải tính đến chi phí, giá thành, chất lượng và hiệu quả kinh tế trong sự phân công và hợp tác theo chuỗi giá trị toàn cầu. Cần nhận thức đúng về CNHT, đó không phải là một ngành công nghiệp riêng mà phụ thuộc vào sản phẩm cuối cùng của từng ngành công nghiệp. GS Nguyễn Mại đánh giá cao việc Bắc Ninh đã thu hút được dự án công nghiệp lớn, công nghệ cao như SAMSUNG. Do đó, khi SAMSUNG đầu tư nhà máy tại tỉnh Thái Nguyên để nâng công suất lên 240 triệu chiếc điện thoại di động mỗi năm thì cần hàng trăm xí nghiệp CNHT tại chỗ và khu vực sản xuất linh kiện, phụ liệu, bao gói, dịch vụ sản xuất và phân phối cho SAMSUNG để tăng dần giá trị gia tăng từ khoảng 10% hiện nay lên 20 – 30% trong những năm tới và cao hơn trong dài hạn. Do đó, trong thời gian tới, tỉnh Bắc Ninh hợp tác với SAMSUNG trên nguyên tắc cùng có lợi, phát triển CNHT tại chỗ, giảm chi phí đầu vào của SAMSUNG, đồng thời tạo điều kiện để phát triển kinh tế của tỉnh và của cả Vùng Thủ đô. Cần phối hợp với SAMSUNG để nắm bắt được nhu cầu linh phụ kiện có thể phát triển tại Việt Nam, tỉnh cần khảo sát thực tế các cơ sở sản xuất hiện có để chọn được những DN có thể tham gia vào giai đoạn đầu, đồng thời nghiên cứu tạo ra những điều kiện cần thiết để thành lập các cơ sở sản xuất mới trong các giai đoạn tiếp theo. Tỉnh cần đề xuất với Chính phủ hệ thống chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ cho SAMSUNG theo hướng ưu đãi như sản xuất công nghệ cao để sớm có hàng chục, hàng trăm DN tham gia. Chính sách ưu đãi không chỉ về thuế, mà còn về tín dụng, tài chính theo hướng hỗ trợ tối đa cho các DN trong giai đoạn đầu để có đủ vốn đầu tư đổi mới hoặc trang bị mới công nghệ hiện đại, bảo đảm yêu cầu sản xuất cả số lượng và chất lượng sản phẩm. Bắc Ninh cũng cần coi trọng đào tạo nguồn nhân lực cho các DN công nghiệp hỗ trợ thông qua mạng lưới trường dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp hiện có và sẽ được thành lập mới; hợp tác với SAMSUNG trong quá trình đào tạo nghề nghiệp gắn với thực tế sản xuất.
Theo TS Hoàng Ngọc Phong, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Ðầu tư), trong thời gian tới cần tiếp tục huy động mọi nguồn lực đầu tư trong nước và ngoài nước vào ngành CNHT, đồng thời điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư vào tỉnh theo hướng chọn lọc và quy hoạch tổng thể có tầm nhìn xa; tăng cường các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với nhóm ngành CNHT; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bằng nhiều hình thức phù hợp với từng giai đoạn, từng nấc thang chiếm lĩnh và làm chủ công nghệ. Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư liên kết, hợp tác đào tạo nghề với các trường, các trung tâm dạy nghề; cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho DN có nhu cầu đầu tư vào CNHT trong quá trình đăng ký cấp giấy chứng nhận đầu tư, trong thủ tục thuê đất, thuê cơ sở hạ tầng và giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình hoạt động, thực hiện dự án; xây dựng hệ thống thông tin ngành CNHT, thực hiện cầu nối giữa các DN có nhu cầu cung cấp các sản phẩm CNHT và các DN có khả năng cung cấp các sản phẩm CNHT.
Chế tạo thiết bị điện tại Công ty TNHH Ðiện Nissin Việt Nam tại khu công nghiệp Tiên Sơn (Bắc Ninh). Ảnh: DƯƠNG HOÀN
Sản xuất linh kiện điện tử của Công ty SAMSUNG tại Khu công nghiệp Yên Phong (Bắc Ninh).
Theo Nhandan.vn
Ý kiến ()