Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững hòa bình, chủ quyền quốc gia, xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và hạnh phúc
(Báo cáo của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa VII tại Ðại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2014 - 2019)
Ðại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VIII diễn ra trong bối cảnh 5 năm qua công cuộc đổi mới của đất nước tiếp tục giành được những thành tựu to lớn. Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình của thế giới. Toàn Ðảng và toàn dân phấn đấu thực hiện mục tiêu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. 5 năm qua, kinh tế thế giới chưa ra khỏi khủng hoảng, biến động chính trị – xã hội, xung đột vũ trang diễn ra ở nhiều nơi, tác động không nhỏ đến phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gần đây, chủ quyền quốc gia bị xâm phạm, đất nước ta phải đối mặt với thách thức gay gắt, có mặt nghiêm trọng. Ðại hội lần này có nhiệm vụ đánh giá đúng mức tình hình, kết quả thực hiện Nghị quyết Ðại hội lần thứ VII Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, rút ra những bài học thực tiễn sâu sắc, dũng cảm, kiên cường vượt qua thách thức. Trên tinh thần đó, Ðại hội nêu cao quyết tâm: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tự lực, tự cường, trí tuệ, sáng tạo vượt qua khó khăn, thách thức, giữ vững hòa bình, chủ quyền quốc gia, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
PHẦN THỨ NHẤT
TÌNH HÌNH KHỐI ÐẠI ÐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ÐỘNG CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIệT NAM NHIỆM KỲ 2009 – 2014
I. TÌNH HÌNH KHỐI ÐẠI ÐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC VÀ CÁC TẦNG LỚP NHÂN DÂN
Ðại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống cực kỳ quý báu của Ðảng và nhân dân ta, được lưu truyền qua các thế hệ người Việt Nam. Tinh thần yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung, tương thân tương ái tiếp tục được phát huy trong thời gian qua, góp phần tạo nên sự đoàn kết, gắn bó chặt chẽ các thành viên trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Những quan điểm, chủ trương về đại đoàn kết dân tộc, về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục được nâng tầm nhận thức trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung phát triển năm 2011), được Hiến pháp và pháp luật khẳng định. Những kết quả đạt được trong xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (1) đã góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Ðảng và sự nghiệp đổi mới đất nước.
Hệ thống Mặt trận và các tổ chức thành viên đã triển khai nhiều cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước có ý nghĩa thiết thực, được các tầng lớp nhân dân hưởng ứng, tham gia với tinh thần hăng hái và sáng tạo, đóng góp có hiệu quả vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, đảm bảo an sinh xã hội… Trước việc chủ quyền quốc gia bị xâm phạm, các tầng lớp nhân dân trong nước và bà con người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài đã thể hiện tinh thần yêu nước sâu sắc, ý chí quyết tâm đấu tranh bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Trong thành quả chung của đất nước và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc có sự đóng góp to lớn của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân.
Giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng phát triển với 11 triệu người, chiếm hơn 26% lực lượng lao động xã hội, có mặt trong tất cả các thành phần kinh tế, giữ vai trò nòng cốt tiếp thu và làm chủ khoa học, công nghệ tiên tiến, góp phần quan trọng vào việc hình thành các ngành công nghiệp hiện đại và sự tăng trưởng của nền kinh tế. Công nhân mong muốn có việc làm ổn định, nhà ở, đời sống văn hóa và điều kiện học hành cho con em tốt hơn, nhất là trong các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Giai cấp nông dân Việt Nam với gần 20 triệu người, chiếm hơn 47% lực lượng lao động xã hội, có truyền thống cần cù, sáng tạo, vượt khó; tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, góp phần xây dựng nông thôn mới. Trong lúc kinh tế khó khăn, nông dân, nông nghiệp đã góp phần quan trọng ổn định đời sống xã hội, hỗ trợ đắc lực cho công nghiệp, dịch vụ phát triển. Nông dân còn băn khoăn về đời sống thu nhập thấp, chính sách hỗ trợ sản xuất kinh doanh còn hạn chế, tiêu thụ sản phẩm không ổn định; việc làm, đào tạo nghề, đặc biệt là ở miền núi, vùng sâu còn nhiều khó khăn.
Ðội ngũ trí thức những năm qua phát triển nhanh, với 4,9 triệu người, chiếm gần 12% lực lượng lao động xã hội, đi đầu trong các hoạt động khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội, giáo dục và đào tạo, phát triển kinh tế tri thức, tạo ra nhiều công trình, sản phẩm khoa học có giá trị cao, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Ðội ngũ trí thức mong muốn được phát huy hết khả năng sáng tạo của mình cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Ðội ngũ công chức, viên chức cả nước có hơn 2,4 triệu người, chiếm 5,6% lực lượng lao động xã hội, đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, khắc phục khó khăn, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ, góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước, đáp ứng nhu cầu chăm sóc y tế, giáo dục đào tạo và văn hóa của nhân dân. Tăng lương để trang trải các nhu cầu cơ bản của cuộc sống và có chương trình về nhà ở là mong mỏi của đa số công chức, viên chức.
Thanh niên Việt Nam với hơn 26 triệu người, chiếm 29% dân số cả nước, là lực lượng đông đảo, có tiềm năng to lớn, đã phát huy vai trò năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, tiếp cận nhanh với những tri thức của thời đại, có ý thức phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Thanh niên còn nhiều khó khăn trong tìm việc làm, nhà ở, thiếu điều kiện vui chơi, giải trí, mong muốn được phát huy hơn nữa tài năng. Một bộ phận thanh niên sống thiếu lý tưởng, hoài bão, thiếu rèn luyện về đạo đức, lối sống, ý thức tuân thủ pháp luật.
Phụ nữ Việt Nam với hơn 45 triệu người, chiếm hơn 50% dân số và hơn 47% lực lượng lao động xã hội, đã phát huy truyền thống “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”, đề cao tự trọng, tự tin, nỗ lực trong học tập, lao động, khắc phục khó khăn, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Phụ nữ luôn quan tâm tới bình đẳng giới, bảo vệ bà mẹ và trẻ em, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập.
Cựu chiến binh Việt Nam với hơn 2,7 triệu hội viên, tiếp tục phát huy truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, nêu cao tinh thần đoàn kết, tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, giữ gìn an ninh trật tự, giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống, tham gia xây dựng Ðảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh; cùng với cựu thanh niên xung phong luôn nêu gương sáng cho thế hệ trẻ. Vấn đề quan tâm hiện nay là cần tiếp tục giải quyết đúng đắn, công bằng chế độ, chính sách cho người có công với cách mạng.
Các lực lượng vũ trang nhân dân tiếp tục phát huy truyền thống trung thành với Tổ quốc, nhân dân, với Ðảng và chế độ, là lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, giữ vững thế trận an ninh nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Ðội ngũ doanh nhân Việt Nam có khoảng 2 triệu người, hoạt động trong hơn 346.000 doanh nghiệp giữ vai trò nòng cốt trong phát triển kinh tế, tạo việc làm, góp phần xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Doanh nhân mong muốn môi trường đầu tư và kinh doanh được cải thiện hơn, có chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp và sản phẩm, dịch vụ mới, loại trừ tiêu cực trong thực thi chính sách phát triển kinh tế. Một bộ phận doanh nghiệp sản xuất hàng giả, hàng kém chất lượng, nhập khẩu trái phép, không đóng thuế và bảo hiểm xã hội, gây ô nhiễm môi trường…
Người cao tuổi Việt Nam với hơn 12 triệu người, chiếm hơn 13% dân số cả nước, ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng trong gia đình và xã hội, luôn nêu cao tinh thần “tuổi cao – gương sáng”, làm trụ cột về đời sống tinh thần, giáo dục, động viên con cháu hăng hái lao động, học tập, chấp hành pháp luật, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, xây dựng nếp sống văn minh. Người cao tuổi mong muốn được quan tâm chăm sóc tốt hơn, phát huy uy tín và kinh nghiệm trong cuộc sống.
Ðồng bào các dân tộc thiểu số với gần 14 triệu người, chiếm 14% dân số cả nước, ngày càng có nhiều đóng góp trong sự nghiệp phát triển kinh tế, giữ gìn, phát huy bản sắc và sự đa dạng văn hóa của các dân tộc, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Ðời sống vật chất, tinh thần của đồng bào ngày càng được cải thiện trên cơ sở thực hiện chính sách của Ðảng, Nhà nước và nỗ lực, sáng tạo của đồng bào các dân tộc. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ nghèo trong các dân tộc thiểu số còn khá cao, nhất là ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ (2).
Ðồng bào tín đồ các tôn giáo khoảng 24 triệu người, chiếm gần 27% dân số cả nước, tiếp tục phát huy truyền thống gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, “sống tốt đời đẹp đạo”, tham gia các phong trào thi đua yêu nước, nỗ lực trong sản xuất, kinh doanh, hoạt động nhân đạo, từ thiện, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo, đóng góp tích cực vào công cuộc đổi mới đất nước. Tuy nhiên, vẫn còn hiện tượng kẻ xấu lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng, vi phạm pháp luật, gây mất trật tự, ổn định xã hội.
Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài với hơn 4,5 triệu người sống và làm việc ở 103 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, là bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam, có nhiều nỗ lực trong học tập, lao động, chấp hành pháp luật nước sở tại, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, nêu cao tinh thần đoàn kết gắn bó với quê hương, đất nước, tích cực đóng góp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (3); làm cầu nối thúc đẩy quá trình hội nhập, tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam với các nước trên thế giới. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài mong muốn được quan tâm, giúp đỡ nhiều hơn để gìn giữ, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, nhất là tiếng nói và chữ viết cho thế hệ trẻ, phát huy hơn nữa khả năng đóng góp của đội ngũ trí thức cho phát triển đất nước.
Các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, hội quần chúng, nhiều thành phần xã hội như nhà giáo, thầy thuốc, hộ công thương cá thể, nhân viên thương mại dịch vụ, hộ sản xuất kinh doanh, lao động thời vụ, lao động tự do… hình thành và phát triển đa đạng, có nhiều đóng góp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trước những nhu cầu phong phú và lợi ích thiết thực của các tầng lớp nhân dân, Mặt trận Tổ quốc cùng Nhà nước và xã hội từng bước tạo điều kiện phát huy, đáp ứng những nguyện vọng chính đáng, tăng cường đồng thuận xã hội, thu hẹp những diễn biến phân tâm, cùng nhau đoàn kết, khắc phục khó khăn, ổn định và phát triển.
Bên cạnh những thành tựu phát triển đất nước trong thời gian qua nhân dân còn nhiều băn khoăn, bức xúc trước những yếu kém, tiêu cực kéo dài, như: tình trạng tham nhũng, suy thoái đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; đạo đức xã hội xuống cấp; tệ nạn xã hội gia tăng; ô nhiễm môi trường ở nhiều nơi trầm trọng; an toàn thực phẩm chưa đảm bảo; tai nạn giao thông còn nghiêm trọng; bất cập trong quản lý và đảm bảo chất lượng giáo dục, dịch vụ y tế; chưa ngăn chặn được tình trạng sản xuất, tiêu thụ hàng hóa kém chất lượng và độc hại, nhập lậu quy mô lớn; gian dối trong thi công nhiều công trình giao thông, xây dựng, công nghiệp…
Năm năm qua, các thế lực thù địch tiếp tục gia tăng hoạt động chống phá cách mạng, xuyên tạc lịch sử, thành tựu công cuộc đổi mới đất nước, gây mất ổn định, chia rẽ các dân tộc, các tầng lớp nhân dân. Việc chủ quyền quốc gia trên Biển Ðông bị xâm phạm nghiêm trọng trong thời gian gần đây khiến nhân dân rất bất bình và quyết tâm đấu tranh để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ.
II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ÐỘNG CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM NHIỆM KỲ 2009 – 2014
1. Vận động, tập hợp, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Công tác vận động, tập hợp, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân của Ủy ban Mặt trận các cấp và các tổ chức thành viên đã góp phần nâng cao đồng thuận trong nhân dân, giữ vững ổn định tình hình đất nước trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều biến động bất lợi. Các nội dung và phương thức vận động, tập hợp được đổi mới và đa dạng hơn mang lại kết quả thiết thực trong xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Các chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế – xã hội, tăng cường quốc phòng – an ninh, đối ngoại, về đại đoàn kết toàn dân tộc, vai trò, nhiệm vụ của Mặt trận được kịp thời truyền tải đến các tầng lớp nhân dân thông qua truyền thông của Ðảng, Nhà nước, công tác thông tin, tuyên truyền của Mặt trận và các tổ chức thành viên. Ủy ban Mặt trận các cấp và các tổ chức thành viên đã đổi mới về nội dung, phương thức tuyên truyền, từng bước phối hợp thống nhất để tuyên truyền, vận động có hiệu quả theo trọng tâm, chủ đề chung như: Nghị quyết Ðại hội XI của Ðảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), việc lấy ý kiến nhân dân góp ý vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Luật Ðất đai (sửa đổi), Bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp (nhiệm kỳ 2011-2016), kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam; tuyên truyền về bảo vệ chủ quyền quốc gia… Các hoạt động tuyên truyền đã góp phần cung cấp thông tin mọi mặt đời sống xã hội đến với các tầng lớp nhân dân, nâng cao ý thức chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo sự đồng thuận trong thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh của đất nước.
Các tầng lớp nhân dân, đoàn viên, hội viên đã hăng hái, tích cực hưởng ứng học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thông qua việc triển khai sâu rộng, thường xuyên của Ủy ban Mặt trận các cấp và các tổ chức thành viên với nội dung ngày càng thiết thực, gắn với từng cơ quan, đơn vị, địa bàn dân cư, góp phần đề cao giá trị đạo đức trong xã hội, tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên, tăng cường gắn bó, đoàn kết giữa Ðảng, chính quyền, Mặt trận và nhân dân, củng cố sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Ủy ban Mặt trận các cấp và các tổ chức thành viên đã cụ thể hóa các tiêu chí học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thành các nội dung trong các phong trào, cuộc vận động; xây dựng cụ thể các tiêu chí học tập và hành động trong từng đối tượng đoàn viên, hội viên gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Ðảng hiện nay”, tạo sự lan tỏa của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong các tầng lớp nhân dân.
Với sự hướng dẫn và tổ chức của Mặt trận và các tổ chức thành viên, đông đảo các tầng lớp nhân dân đã hăng hái hưởng ứng, đoàn kết tham gia các phong trào thi đua yêu nước và các cuộc vận động với hình thức ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu đoàn kết giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa, tham gia xây dựng Ðảng, chính quyền, tự quản giữ gìn an ninh trật tự và bảo vệ môi trường, đền ơn đáp nghĩa, cứu giúp những người gặp khó khăn, hoạn nạn, tăng cường sự sẻ chia và cộng đồng trách nhiệm, gắn kết các tầng lớp nhân dân ở từng địa bàn dân cư.
Thông qua các hoạt động của Mặt trận và các tổ chức thành viên thời gian qua đã hình thành nên mặt trận tập hợp, đoàn kết rộng rãi các tổ chức, lực lượng xã hội. Nhiều tổ chức hội đoàn mới được thành lập, kết nạp được nhiều đoàn viên, hội viên, làm cho tổ chức của Mặt trận và các tổ chức nhân dân không ngừng lớn mạnh. Qua đó, Mặt trận và các tổ chức thành viên có điều kiện tiếp cận các đối tượng xã hội khác nhau, xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Người tiêu biểu trong các tầng lớp nhân dân, trong đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo ngày càng hiểu rõ các chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gương mẫu, động viên nhân dân phát huy nội lực từ trong các cộng đồng, cải thiện cuộc sống vật chất và tinh thần, ngày càng gắn bó trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Ðặc biệt, bản sắc văn hóa của các dân tộc, trong các tôn giáo được gìn giữ, tinh thần tự lực, tự cường được phát huy. Ủy ban Mặt trận các cấp và các tổ chức thành viên đã chủ động, tích cực đề xuất với Ðảng, Nhà nước xây dựng, bổ sung các cơ chế, chính sách đảm bảo chăm lo lợi ích cho đồng bào các dân tộc, tôn giáo (4); tiếp xúc, động viên, biểu dương, khen thưởng; lắng nghe và kịp thời phối hợp giải quyết nhiều đề xuất, nguyện vọng chính đáng của bà con đồng bào dân tộc, tôn giáo; vận động thực hiện “tôn trọng, bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển” trong đồng bào các dân tộc và đường hướng “sống tốt đời, đẹp đạo” trong đồng bào các tôn giáo.
Ủy ban Mặt trận các cấp và các tổ chức thành viên đã thường xuyên gặp gỡ, thăm hỏi, lắng nghe và chủ động đề xuất với Ðảng, Nhà nước hoàn thiện chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là chính sách hỗ trợ cho bà con về pháp lý, tạo điều kiện để bà con đầu tư kinh doanh thuận lợi. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ban hành Chương trình hành động tuyên truyền, vận động, tập hợp, đoàn kết người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới; hỗ trợ, phát huy vai trò của các hội đoàn trong xây dựng cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đoàn kết, gắn bó, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, hướng về xây dựng quê hương, đất nước. Ở nhiều địa phương, Ủy ban Mặt trận và các tổ chức thành viên đã phối hợp thành lập và hỗ trợ hoạt động các tổ chức Hội hữu nghị, Hội liên lạc với người Việt Nam ở nước ngoài, Hội thân nhân kiều bào (5). Chương trình “Xuân quê hương” nhân dịp Tết cổ truyền của dân tộc, các hoạt động đón kiều bào tiêu biểu về dự Lễ giỗ Tổ Hùng Vương, dự Quốc khánh 2-9, Trại hè Việt Nam, các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, tri ân các anh hùng liệt sĩ đã được Ủy ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, Ủy ban Mặt trận các cấp và các tổ chức thành viên phối hợp tổ chức, góp phần khơi dậy trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài tinh thần đoàn kết dân tộc, hướng về cội nguồn, tích cực tham gia xây dựng và quyết tâm bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc ở khu dân cư vào dịp kỷ niệm Ngày thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam hằng năm (18 tháng 11) được Ủy ban Mặt trận các cấp phối hợp với chính quyền tổ chức nền nếp. Việc tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp gắn với các hoạt động biểu dương các gia đình văn hóa tiêu biểu, trao tặng nhà đại đoàn kết, tổ chức bữa cơm đại đoàn kết, vận động xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh trong dịp diễn ra Ngày hội đã động viên nhân dân phát huy truyền thống quê hương, dòng họ, là biểu hiện sinh động của lòng dân, gắn bó tình làng, nghĩa xóm.
2. Ðộng viên các tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân
Các phong trào thi đua, các cuộc vận động do Ủy ban Mặt trận các cấp và các tổ chức thành viên phát động, triển khai đã có bước phát triển mới, hướng về khu dân cư với nhiều cách làm sáng tạo; xây dựng được các mô hình thực tiễn, hiệu quả, ngày càng đi vào chiều sâu; huy động tiềm năng, sức sáng tạo, tinh thần tự nguyện tham gia của các tầng lớp nhân dân, đoàn viên, hội viên, khắc phục khó khăn, đóng góp các nguồn lực phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” tiếp tục được triển khai theo hướng đổi mới về nội dung và phương thức thực hiện, kịp thời điều chỉnh phù hợp với chủ trương, chính sách mới của Ðảng, Nhà nước, bổ sung các cơ chế, điều kiện để tiếp tục nâng cao hiệu quả cuộc vận động (6). Với phương châm lấy sức dân xây dựng cuộc sống cho dân, lấy lợi ích chung của cộng đồng dân cư làm điểm tương đồng, lấy sự tiến bộ và nâng cao chất lượng cuộc sống ở khu dân cư làm mục đích, Ủy ban Mặt trận các cấp và các tổ chức thành viên đã bám sát địa bàn dân cư và hộ gia đình để triển khai các phong trào, các cuộc vận động, góp phần cổ vũ, động viên nhân dân chủ động phát triển sản xuất kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giảm nghèo bền vững và làm giàu chính đáng, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng nếp sống văn minh, bảo đảm an ninh trật tự và an toàn xã hội.
Hưởng ứng phong trào “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” do Thủ tướng Chính phủ phát động, Mặt trận đã kịp thời triển khai lồng ghép toàn diện các nội dung của cuộc vận động với các tiêu chí xây dựng nông thôn mới bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, hiệu quả trong triển khai thực hiện ở cơ sở (7). Việc phối hợp, lồng ghép thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” với các chương trình mục tiêu quốc gia đã mang lại hiệu quả thiết thực, phát huy được sức mạnh và sức sáng tạo của nhân dân bằng hoạt động tự quản ở các cộng đồng dân cư (8). Trong nhiệm kỳ vừa qua đã có trên 67.000 khu dân cư tiêu biểu, hàng vạn cá nhân điển hình được biểu dương, tôn vinh, tạo sự lan tỏa, tác động mạnh mẽ trong xã hội (9).
Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền quốc gia, hệ thống Mặt trận và các tổ chức xã hội đã tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia: động viên thanh niên thực hiện nghĩa vụ quân sự, phối hợp với chính quyền tổ chức thực hiện chính sách hậu phương quân đội, kết nghĩa quân dân, kịp thời động viên các chiến sĩ đang làm nhiệm vụ nơi biên giới, hải đảo. Ủy ban Mặt trận các cấp và các tổ chức thành viên phối hợp tích cực với bộ đội biên phòng tổ chức tốt phong trào “Quần chúng tham gia tự quản đường biên, cột mốc”, giữ gìn an ninh trật tự khu vực biên giới, tổ chức “Ngày hội biên phòng toàn dân”, đợt vận động “Mái ấm cho người nghèo nơi biên giới, hải đảo” (10); thường xuyên tổ chức các đoàn công tác thăm hỏi các chiến sĩ làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa, đặc biệt là đoàn đại biểu 54 dân tộc, đại biểu kiều bào đã kịp thời đến thăm, động viên quân và dân các huyện đảo. Trước sự việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam, các thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội cùng đông đảo các tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước đã dấy lên tinh thần đoàn kết đấu tranh phản đối mạnh mẽ, kiên quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Trong điều kiện kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, 5 năm qua với cách làm quyết liệt, sáng tạo, cuộc vận động “Ngày vì người nghèo” tiếp tục được triển khai sâu rộng, nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy Ðảng, phối hợp của chính quyền, tham gia của các tổ chức thành viên, sự nhiệt tình ủng hộ của đông đảo các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước, của bạn bè quốc tế. Tháng cao điểm “Vì người nghèo” (từ 17-10 đến 18-11), chương trình “Nối vòng tay lớn” được tổ chức vào ngày 31-12 hằng năm từ 2009 đến 2011 và nhiều cách làm sáng tạo, hiệu quả của các địa phương đã tạo nên những dấu ấn tốt đẹp, sâu đậm trong xã hội, thu hút được sự ủng hộ về nguồn lực giúp đỡ hữu hiệu, kịp thời cho người nghèo, người tàn tật, nhiễm chất độc da cam, người có hoàn cảnh khó khăn. Từ khi phát động đến nay, “Quỹ vì người nghèo” 4 cấp trong cả nước đã vận động được 8.616 tỷ đồng, là điều kiện để hỗ trợ xây dựng và sửa chữa 1.362.934 căn nhà cho hộ nghèo. Từ năm 2009 đến 2013, Mặt trận các cấp đã vận động các chương trình an sinh xã hội trên 32.000 tỷ đồng. Ủy ban Mặt trận các cấp đã chủ trì các hoạt động cứu trợ, trực tiếp vận động và phân bổ trên 665 tỷ đồng; tiếp nhận nhiều hàng hóa, hiện vật của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước giúp cho đồng bào bị thiệt hại do thiên tai, lũ lụt, hỏa hoạn, sự cố nghiêm trọng. Kết quả cuộc vận động và các hoạt động cứu trợ đã góp phần thực hiện mục tiêu của Ðảng và Nhà nước về giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, phát triển bền vững, phát huy truyền thống đoàn kết, nhân ái, yêu nước thương nòi, trở thành giá trị văn hóa tốt đẹp trong đời sống xã hội.
Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” được triển khai chủ động tới các cấp, các ngành, từng địa phương, bước đầu đạt được kết quả tích cực. Sau 5 năm, đã từng bước hình thành văn hóa tiêu dùng hàng Việt trong các cộng đồng dân cư. Nhận thức của bộ phận lớn người tiêu dùng, các doanh nghiệp, các cơ quan về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng sản phẩm và ưu tiên tiêu dùng hàng Việt Nam, mở rộng thị trường nội địa, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam được nâng lên. Nhiều doanh nghiệp trong nước đã chú trọng đổi mới cơ cấu đầu tư, công nghệ, sản xuất ra những mặt hàng phù hợp, có khả năng cạnh tranh cao hơn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Các kênh phân phối được hình thành một cách đa dạng, có sự liên kết theo ngành, lĩnh vực, khu vực địa lý, góp phần đưa hàng hóa trong nước đến với người tiêu dùng nhanh hơn, hiệu quả hơn, đáp ứng nhiều hơn nhu cầu tiêu dùng hàng Việt có chất lượng tại khu vực nông thôn, miền núi. Nhiều cơ chế, chính sách đã được bổ sung, sửa đổi để khuyến khích sản xuất và tiêu dùng hàng hóa trong nước.
Hưởng ứng các cuộc vận động do Mặt trận chủ trì phát động, các tổ chức thành viên đã chủ động, tích cực triển khai sâu rộng các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động đến đông đảo đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam có phong trào thi đua “Lao động giỏi”, “Lao động sáng tạo”. Hội Nông dân Việt Nam triển khai phong trào “Nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững”, phong trào “Nông dân thi đua xây dựng nông thôn mới”. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam triển khai phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”. Hội Cựu chiến binh Việt Nam có phong trào thi đua “Cựu chiến binh gương mẫu”. Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh vận động “Xây dựng giá trị hình mẫu thanh niên Việt Nam thời kỳ mới”, tổ chức các phong trào “Xung kích phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc” và “Ðồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp”. Hội Chữ thập đỏ Việt Nam có cuộc vận động “Mỗi tổ chức, mỗi cá nhân gắn với một địa chỉ nhân đạo”. Hội Người cao tuổi Việt Nam triển khai phong trào thi đua “Ông bà mẫu mực, con cháu hiếu thảo”. Quân đội nhân dân Việt Nam tổ chức phong trào thi đua “Giành 3 đỉnh cao quyết thắng”. Hội Cựu thanh niên xung phong có phong trào “Cựu thanh niên xung phong nêu gương sáng, làm theo lời dạy và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Hội Khuyến học Việt Nam triển khai phong trào thi đua “Học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng”. Giáo hội Phật giáo Việt Nam có phong trào thi đua “Xây dựng chùa cảnh tinh tiến”. Ủy ban Ðoàn kết Công giáo Việt Nam tổ chức cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư, sống tốt đời đẹp đạo”; Hội Nạn nhân chất độc da cam/đi-ô-xin Việt Nam tổ chức phong trào “Vì nạn nhân chất độc da cam Việt Nam”. Nhiều cuộc vận động có ý nghĩa kinh tế, xã hội của các tổ chức xã hội khác được nhân dân hưởng ứng và đánh giá cao.
3. Vận động các tầng lớp nhân dân phát huy quyền làm chủ, tham gia xây dựng Ðảng, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh
Việc vận động phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng đồng thuận xã hội, thi hành chính sách, pháp luật trong nhiệm kỳ qua có tiến bộ. Ủy ban Mặt trận các cấp và các tổ chức thành viên đã tích cực tham gia xây dựng Ðảng thông qua phản biện xã hội (tổ chức góp ý vào các văn kiện Ðại hội Ðảng các cấp và Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ XI; tham gia xây dựng các chủ trương, Nghị quyết của Ðảng liên quan đến xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc) và giám sát hoạt động của cán bộ, công chức, đảng viên ở địa bàn dân cư (góp ý kiểm điểm nâng cao chất lượng đảng viên, cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Ðảng hiện nay”). Ðã triển khai nghiên cứu các chuyên đề tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới phục vụ Ðại hội lần thứ XII của Ðảng (11). Việc nắm bắt, tổng hợp và phản ánh ý kiến của nhân dân với Ðảng, Nhà nước từng bước được đổi mới thông qua các báo cáo tình hình nhân dân hằng quý, các Hội nghị nêu lên ý kiến, kiến nghị của nhân dân với Ðảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ủy ban Mặt trận các cấp và các tổ chức thành viên đã tích cực vận động nhân dân tham gia xây dựng Nhà nước thông qua bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016; đổi mới và nâng cao chất lượng tập hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và toàn dân để phản ánh tại các kỳ họp Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, bảo đảm ngày càng bám sát và phản ánh đúng tâm tư, nguyện vọng của cử tri và nhân dân. Tổ chức để nhân dân trao đổi, đối thoại với lãnh đạo cấp ủy Ðảng, chính quyền, kịp thời giải quyết những nguyện vọng chính đáng, giải tỏa những băn khoăn, lo lắng trong nhân dân. Công tác tham gia tuyển chọn thẩm phán, kiểm sát viên, giới thiệu hội thẩm nhân dân tiếp tục được Ủy ban Mặt trận các cấp thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Công tác tham gia xây dựng pháp luật ngày càng được mở rộng về phạm vi, có chất lượng, thiết thực và hiệu quả hơn. Ủy ban Mặt trận các cấp và các tổ chức thành viên đã tổ chức để đông đảo các tầng lớp nhân dân phát huy dân chủ, trí tuệ, tích cực tham gia với 8.071.919 ý kiến góp ý sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Quá trình triển khai tổ chức lấy ý kiến nhân dân được tiến hành dân chủ, rộng rãi, tạo không khí sinh hoạt chính trị rộng khắp, nhận được sự đồng thuận và góp phần phát huy quyền làm chủ thực sự trong nhân dân. Ủy ban Mặt trận các cấp và các tổ chức thành viên đã chủ động tham gia ý kiến có chất lượng vào nhiều dự án luật, pháp lệnh và văn bản pháp luật khác có liên quan trực tiếp đến quyền và trách nhiệm của đoàn viên, hội viên và nhân dân(12); tham gia ban soạn thảo, tổ biên tập nhiều dự án luật, pháp lệnh. Việc xây dựng Dự án Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (sửa đổi) đã nhận được sự tham gia đóng góp trí tuệ của nhiều tổ chức thành viên, các cơ quan nhà nước, Ủy ban Mặt trận các cấp và các chuyên gia(13).
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật của Ủy ban Mặt trận các cấp và các tổ chức thành viên đã tập trung hướng về cơ sở, địa bàn dân cư bằng những phương thức phù hợp, hiệu quả hơn(14), góp phần động viên nhân dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương xã hội. Việc tham gia giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân đã được quan tâm thực hiện cụ thể hơn. Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng tiếp tục được củng cố, hoạt động hiệu quả hơn. Trong 5 năm qua đã tiến hành 131.438 cuộc giám sát, 205.809 cuộc thanh tra nhân dân, qua đó chính quyền cơ sở đã xử lý 86.865 vụ việc sai phạm, góp phần làm minh bạch quản lý vốn, tài sản của nhà nước và các công trình, dự án đầu tư của cộng đồng, phòng chống tiêu cực, thất thoát, lãng phí (15). Ban Công tác Mặt trận ở khu dân cư đã phát huy vai trò và uy tín của mình tích cực tham gia công tác hòa giải, giải quyết mâu thuẫn nội bộ trong nhân dân, góp phần tạo sự ổn định, gắn bó đoàn kết nhân dân trên địa bàn dân cư(16).
Việc Bộ Chính trị ban hành Quy chế Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội; Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Ðảng, xây dựng chính quyền vào tháng 12 năm 2013 đã tạo cơ chế mới để Mặt trận, các đoàn thể chính trị – xã hội và nhân dân tham gia xây dựng Ðảng, xây dựng chính quyền. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tích cực phối hợp với các cơ quan chức năng của Quốc hội tham gia các hoạt động giám sát theo chuyên đề(17); chủ động lựa chọn các vụ việc phức tạp, gây nhiều bức xúc trong nhân dân để tổ chức giám sát, được dư luận nhân dân ủng hộ và ghi nhận(18). Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã chủ động kiến nghị và phối hợp với Chính phủ, các tổ chức thành viên xây dựng chương trình phối hợp giám sát một số lĩnh vực quan trọng liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của đông đảo nhân dân như: thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng; việc thực hiện pháp luật về sản xuất, kinh doanh vật tư nông nghiệp; thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội trong các doanh nghiệp; việc chấp hành pháp luật của các cơ sở khám chữa bệnh và nhà thuốc ngoài công lập; thực hiện Luật Khoa học và Công nghệ và Nghị quyết Trung ương 6 khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ.
4. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại nhân dân, tăng cường đoàn kết quốc tế
Với phương châm “chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả”, trong nhiệm kỳ qua, hoạt động đối ngoại nhân dân của Ủy ban Mặt trận các cấp và các tổ chức thành viên ngày càng được tăng cường và đổi mới, đúng định hướng, có trọng tâm, mở rộng về địa bàn, lĩnh vực, đa dạng về đối tượng, góp phần hiện thực hóa chủ trương, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác cùng phát triển của Ðảng và Nhà nước, tạo thuận lợi cho quá trình đổi mới toàn diện đất nước, nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục phát triển quan hệ hữu nghị với các tổ chức Mặt trận, tổ chức nhân dân các nước láng giềng và đối tác truyền thống. Ðã tăng cường các hoạt động trao đổi hợp tác với Mặt trận Lào xây dựng đất nước, Mặt trận Ðoàn kết phát triển Tổ quốc Campuchia thông qua việc duy trì tổ chức Hội nghị Chủ tịch Mặt trận ba nước, thực hiện bản Ghi nhớ “Chương trình hợp tác giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Ðoàn kết phát triển Tổ quốc Campuchia và Mặt trận Lào xây dựng đất nước”; phối hợp tổ chức tốt các hoạt động “Năm đoàn kết hữu nghị”, tập huấn, trao đổi kinh nghiệm công tác, các hội nghị đường biên giới hòa bình hữu nghị, hoạt động giao lưu, hợp tác giữa các địa phương có chung đường biên giới(19). Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục duy trì và tăng cường các hoạt động hợp tác, trao đổi đoàn với Chính hiệp Trung Quốc, Ủy ban Bảo vệ Cách mạng Cuba, Mặt trận Dân chủ thống nhất Tổ quốc Triều Tiên, đẩy mạnh hợp tác với Hiệp hội nhân dân Xinh-ga-po và mở rộng quan hệ với các tổ chức nhân dân các nước Venezuela, Brazil, Ý, Canada, Mỹ, Nga, Ðức, Nhật… Ðã đón 47 đoàn quốc tế đến trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Kịp thời thăm hỏi, giúp đỡ nhân dân các nước Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, Campuchia… bị thiên tai, sự cố nghiêm trọng.
Quan hệ hợp tác của Mặt trận với các tổ chức quốc tế và cơ quan đại diện ngoại giao tại Việt Nam được duy trì thường xuyên, đã góp phần hỗ trợ các hoạt động đối ngoại của Ðảng, ngoại giao của Nhà nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là thành viên và đã đóng góp tích cực cho các hoạt động của Hiệp hội quốc tế các Hội đồng Kinh tế – Xã hội và các tổ chức tương đương, được đánh giá cao trong các chuyên đề về chính sách giảm nghèo bền vững, góp phần thực hiện Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc.
Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Ðoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam và các tổ chức thành viên khác đã triển khai nhiều hoạt động giao lưu, trao đổi hợp tác với các đối tác của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, phát huy vai trò đoàn viên, hội viên và người Việt Nam ở nước ngoài làm cầu nối phát triển quan hệ hữu nghị, tăng cường hợp tác quốc tế, tuyên truyền quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam với bạn bè quốc tế, thu hút các nguồn tài trợ; đẩy mạnh tuyên truyền đối ngoại về chủ quyền biển đảo, công tác phân giới, cắm mốc trên đất liền, đấu tranh chống sự xuyên tạc, bóp méo lịch sử của các thế lực thù địch.
5. Kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ; đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp
Kết quả củng cố tổ chức bộ máy, cán bộ, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Ủy ban Mặt trận các cấp và các tổ chức thành viên đã tạo nên những tiền đề quan trọng nâng cao vị thế chính trị, xã hội của Mặt trận trong thời kỳ mới.
Ủy ban Mặt trận các cấp tiếp tục được củng cố và mở rộng, thu hút thêm nhiều thành viên mới, tăng thêm số lượng người tiêu biểu, đại diện các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài, chuyên gia trên các lĩnh vực, thể hiện được tính tiêu biểu, đại diện, thiết thực trong Ủy ban Mặt trận các cấp(20). Hệ thống tổ chức bộ máy, cán bộ cơ quan chuyên trách Ủy ban Mặt trận các cấp được tăng cường về số lượng và chất lượng. Bộ Chính trị phân công một Ủy viên Bộ Chính trị để Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiệp thương cử làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam. Số lượng Chủ tịch Ủy ban Mặt trận các cấp tham gia Thường vụ cấp ủy tăng(21). Ðội ngũ cán bộ Mặt trận các cấp được quan tâm bồi dưỡng, tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng vận động nhân dân(22). Hoạt động của các Hội đồng tư vấn, Ban tư vấn tiếp tục được tăng cường, mở rộng lực lượng cán bộ không chuyên trách, đội ngũ chuyên gia, cộng tác viên, phát huy hiệu quả tư vấn cho Ủy ban Mặt trận các cấp trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và hoạt động của Mặt trận(23). Công tác kiện toàn tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Công tác Mặt trận ở khu dân cư được coi trọng với nhiều giải pháp thiết thực(24).
Việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo Kết luận ngày 8-12-2009 của Bộ Chính trị (khóa X) “Về tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội” đạt kết quả tích cực. Nội dung, phương thức phối hợp giữa các thành viên trong Mặt trận được đổi mới, tăng cường hiệp thương dân chủ, thể hiện rõ hơn vai trò, tính chất liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của Mặt trận và đặc thù, thế mạnh của các tổ chức thành viên, có sự phân công trách nhiệm cụ thể, tạo sự đồng thuận và thống nhất cao trong hành động(25). Các hoạt động của Mặt trận đã hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư, giảm bớt tính hình thức; kết hợp hoạt động của bộ máy chuyên trách với các hội đồng tư vấn, chuyên gia, cộng tác viên, làm tăng sức mạnh, giảm bớt những biểu hiện hành chính trong hoạt động của Mặt trận.
Ủy ban Mặt trận các cấp đã chủ động đề xuất tham mưu cho cấp ủy Ðảng, hình thành cơ chế và chương trình phối hợp công tác với các cơ quan của chính quyền các cấp, qua đó góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo của Ðảng, hiệu quả quản lý của nhà nước và đổi mới công tác vận động, tập hợp đoàn kết các tầng lớp nhân dân của Mặt trận. Việc thực hiện quy chế phối hợp với chính quyền được tiếp tục đẩy mạnh, mở rộng trên nhiều lĩnh vực như: tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; tổ chức lấy phiếu tín nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã; lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn; Quy chế thực hiện thí điểm Mặt trận giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư; phát huy vai trò của Ban Thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng; tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở… Quy chế phối hợp giữa Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Chủ tịch nước, Chính phủ và Ủy ban Thường vụ Quốc hội được triển khai thiết thực, hiệu quả.
III. ÐÁNH GIÁ CHUNG
1. Những kết quả đạt được
Trong nhiệm kỳ qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục phấn đấu phát huy vai trò, trách nhiệm của mình trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội. Nội dung và phương thức hoạt động được đổi mới, thể hiện rõ hơn tính chất liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài. Trách nhiệm đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, nhiệm vụ giám sát, phản biện xã hội đã được triển khai có kết quả bước đầu, được nhân dân ở các địa phương ghi nhận.
Năm chương trình hành động do Ðại hội VII Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đề ra đã được thực hiện tốt, vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được nâng cao. Các cuộc vận động, phong trào thi đua thiết thực hơn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân. Việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tham gia xây dựng Ðảng, xây dựng Nhà nước ngày càng rõ hơn về cơ chế và phương thức tổ chức thực hiện. Cùng với công tác đối ngoại của Ðảng, ngoại giao Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đã góp phần mở rộng đoàn kết hữu nghị và hợp tác, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Kết quả đổi mới nội dung, phương thức hoạt động đã tạo nên những tiền đề, kinh nghiệm cho công tác Mặt trận trong thời kỳ mới.
Những kết quả đạt được của công tác Mặt trận trong nhiệm kỳ qua là to lớn và có ý nghĩa quan trọng, góp phần củng cố và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị, giữ vững ổn định tình hình đất nước trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều khó khăn, thách thức.
Ðạt được những kết quả trên đây là nhờ có sự quan tâm lãnh đạo toàn diện của Ðảng đối với tổ chức và hoạt động của Mặt trận, nhất là việc kịp thời tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, bổ sung các chủ trương, chính sách về đại đoàn kết toàn dân tộc và vai trò, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; sự phối hợp ngày càng hiệu quả của Nhà nước và các cấp chính quyền; sự chủ động, tích cực của các tổ chức thành viên; sự nỗ lực, tâm huyết của đội ngũ cán bộ làm công tác Mặt trận từ Trung ương đến cơ sở; đặc biệt là sự quan tâm ủng hộ của toàn xã hội và hưởng ứng rộng rãi của các tầng lớp nhân dân.
2. Những hạn chế, yếu kém
Phương thức vận động, tập hợp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc chưa theo kịp những yêu cầu mới trong xã hội. Mặt trận chưa thường xuyên và thiếu cơ chế phối hợp với các tổ chức thành viên trong việc nắm bắt và phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân.
Các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động trong Mặt trận có việc còn chồng chéo hoặc mang tính hình thức. Một số nơi, các cuộc vận động, phong trào thi đua chưa tạo được sự chuyển biến tích cực, chưa cải thiện được nhiều tình hình khó khăn, vướng mắc ở cơ sở.
Ở một số lĩnh vực, địa bàn thực tế, Mặt trận chưa làm tốt vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; còn nhiều khó khăn trong triển khai các nhiệm vụ về giám sát và phản biện xã hội; chưa giám sát tốt việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Một số nơi, hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng chưa có nhiều kết quả; việc giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân chưa đạt yêu cầu.
Phối hợp giữa Ủy ban Mặt trận và các tổ chức thành viên trong công tác đối ngoại nhân dân còn theo vụ việc, chưa có chương trình phối hợp hằng năm.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chưa hướng dẫn, kiểm tra kịp thời một số lĩnh vực hoạt động, chưa chủ động đề xuất với cấp ủy Ðảng, phối hợp với chính quyền về công tác Mặt trận.
Tổ chức bộ máy của Ủy ban Mặt trận các cấp chậm được kiện toàn, đổi mới, cơ chế hoạt động gặp nhiều khó khăn. Ủy ban Mặt trận cơ sở và Ban Công tác Mặt trận ở khu dân cư nhiều nơi hoạt động chưa chủ động, thiếu nguồn lực. Công tác bố trí, tạo nguồn, phối hợp luân chuyển cán bộ Mặt trận còn nhiều bất cập, thiếu cơ chế chính sách thu hút cán bộ có năng lực. Một bộ phận cán bộ làm công tác Mặt trận năng lực còn hạn chế, chưa yên tâm công tác, thiếu nhiệt tình và trách nhiệm trong công việc. Chưa phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của các ủy viên ủy ban, thành viên các Hội đồng tư vấn và cộng tác viên.
Những hạn chế, yếu kém trên đây là do những nguyên nhân chính: Một số quan điểm, chủ trương về đại đoàn kết toàn dân tộc, về công tác Mặt trận chậm được cụ thể hóa bằng cơ chế, chính sách cụ thể. Việc tổng kết và phát triển lý luận về công tác Mặt trận chưa được triển khai đúng mức. Chưa hình thành cơ chế nhân dân giám sát Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, vì vậy động lực đổi mới bên trong hệ thống Mặt trận chưa mạnh. Nhiều cán bộ, đảng viên và không ít cấp ủy Ðảng, chính quyền chưa nhận thức đúng về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và còn xem nhẹ công tác Mặt trận.
IV. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Từ thực tiễn sinh động của công tác Mặt trận nhiệm kỳ qua có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cơ bản sau:
Một là, đảm bảo sự lãnh đạo của Ðảng là nhân tố quyết định thành công của công tác Mặt trận. Không chỉ các tổ chức, cá nhân trong Mặt trận mà tất cả các tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị phải thấu suốt tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đại đoàn kết toàn dân tộc, về vị trí, vai trò của Mặt trận thì mới cùng làm, cùng chịu trách nhiệm và vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo, hiệu quả trong công việc.
Hai là, mọi hoạt động của Mặt trận phải xuất phát từ nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân. Mặt trận phải lắng nghe, thực sự là người đại diện quyền làm chủ của nhân dân, tổ chức việc giám sát và phản biện xã hội có hiệu quả.
Ba là, vai trò của Mặt trận được phát huy hay không là nhờ vào sức mạnh tổng hợp của các tổ chức thành viên và mọi tầng lớp nhân dân. Trong triển khai thực hiện công việc, Mặt trận phải làm tốt hiệp thương dân chủ, phối hợp thống nhất hành động với các thành viên, chủ trì hiệp thương và phân công các thành viên để thực hiện các nhiệm vụ đề ra.
Bốn là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải phối hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền để tạo ra cơ chế, chính sách và đảm bảo nguồn lực cho hoạt động của Mặt trận. Ðịnh kỳ xây dựng chương trình, kiểm tra đôn đốc và giám sát việc thực hiện công việc của các bên.
Năm là, không ngừng nâng cao năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ Mặt trận. Mời gọi các lực lượng xã hội đồng lòng, góp sức chăm lo cho công tác Mặt trận. Nêu cao trách nhiệm người đứng đầu Ủy ban Mặt trận các cấp. Phát huy vai trò Ban Công tác Mặt trận ở khu dân cư.
PHẦN THỨ HAI
MỤC TIÊU VÀ CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ÐỘNG CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM NHIỆM KỲ 2014 – 2019
I. BỐI CẢNH TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC
Tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp và khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc và tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ, chiến tranh cục bộ, khủng bố, bạo loạn, “diễn biến hòa bình” ở một số nơi vẫn diễn ra. Các nước đặt lợi ích quốc gia lên ưu tiên hàng đầu. Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, các nước lớn vẫn chi phối quan hệ quốc tế, mở rộng lợi ích và tầm ảnh hưởng của mình. Ðang diễn ra quá trình tái cấu trúc quan hệ giữa các nước, hình thành các liên kết mới trên thế giới và ở các khu vực. Kinh tế thế giới đang chuyển sang một giai đoạn mới, tăng trưởng cao hơn nhưng tiềm ẩn nhiều nguy cơ, rủi ro. Những vấn đề toàn cầu ảnh hưởng đến đời sống con người như an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh… tiếp tục diễn biến phức tạp. Việc hình thành “Cộng đồng các nước Ðông-Nam Á” vào năm 2015 sẽ là một tiền đề quan trọng góp phần bảo vệ hòa bình, ổn định và thúc đẩy phát triển ở khu vực. Tuy nhiên, Việt Nam và một số nước khác đang trực tiếp đối mặt với nguy cơ bị xâm phạm chủ quyền quốc gia, lãnh thổ và vùng đặc quyền kinh tế. Tự do và an ninh hàng hải quốc tế bị đe dọa.
Ở trong nước, những thành tựu, kinh nghiệm trong gần 30 năm đổi mới đã tạo ra cho đất nước thế và lực mới, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước. Những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội, xây dựng hệ thống chính trị tiếp tục được Ðảng, Nhà nước và nhân dân quyết tâm khắc phục. Ðổi mới mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được đẩy mạnh. Sự đa dạng về điều kiện sống, nhu cầu và lợi ích khác nhau giữa các tầng lớp nhân dân đòi hỏi ở Mặt trận sự lắng nghe, cầu thị và cởi mở để tìm ra cách tạo đồng thuận xã hội trong tình hình mới. Ðối ngoại nhân dân đang đứng trước những yêu cầu mới, cần mở rộng, tăng cường đoàn kết, hữu nghị và hợp tác, nhất là với các nước láng giềng và đối tác có lợi ích chiến lược chung. Bên cạnh đó vẫn diễn ra âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.
Bối cảnh tình hình thế giới và trong nước đòi hỏi Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong nhiệm kỳ tới phải tự đổi mới mạnh mẽ, xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ và chương trình hành động, đáp ứng yêu cầu củng cố, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, thực hiện sứ mệnh cao cả của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và quy định trong Hiến pháp năm 2013, đáp ứng những yêu cầu từ thực tiễn cuộc sống phong phú của các tầng lớp nhân dân.
II. MỤC TIÊU
Trong 5 năm tới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tập trung đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương thức hoạt động nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện tốt chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội, phát huy dân chủ, thực hiện giám sát và phản biện xã hội, tích cực tham gia xây dựng Ðảng, chính quyền vững mạnh, góp phần phát triển bền vững kinh tế – xã hội, đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, giữ vững hòa bình, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, vì nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và hạnh phúc.
III. CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ÐỘNG CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM NHIỆM KỲ 2014 – 2019
Ðể thực hiện mục tiêu nêu trên, trong nhiệm kỳ tới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần triển khai thực hiện 5 chương trình hành động sau đây:
CHƯƠNG TRÌNH 1: Nâng cao hiệu quả tuyên truyền, vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân, củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
Thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, Ủy ban Mặt trận các cấp thực hiện tốt nhiệm vụ “Mặt trận lắng nghe nhân dân nói”, tập hợp ý kiến, nguyện vọng, hiến kế của nhân dân, phản ánh định kỳ ít nhất 3 tháng một lần và đột xuất khi cần thiết, để các cơ quan Ðảng, Nhà nước và Mặt trận kịp thời nắm vững, đầy đủ tình hình đất nước và đời sống nhân dân. Ðồng thời, Mặt trận cần góp phần cung cấp đầy đủ thông tin cho nhân dân về tình hình đất nước và quốc tế, về chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước, về kết quả giám sát và phản biện xã hội, về tiếp thu ý kiến và sáng kiến của nhân dân, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động thông qua việc phối hợp đồng bộ với các thành viên, các cơ quan của Ðảng, Nhà nước và truyền thông đại chúng. Ðây là cơ sở quan trọng để Mặt trận các cấp xây dựng chương trình thông tin, tuyên truyền, vận động nhân dân phát huy sáng tạo, chủ động tham gia các cuộc vận động, phong trào do Mặt trận và các tổ chức thành viên triển khai, tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động, củng cố và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục triển khai sâu rộng việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Ðảng hiện nay”, Kết luận Hội nghị Trung ương 5 về “Tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”, Nghị quyết Trung ương 7 (Khóa XI) “Về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”, Nghị quyết Trung ương 9 về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Tích cực triển khai Ðề án “Phổ biến, học tập và thi đua cùng các điển hình tiên tiến” của Chính phủ nhằm phát hiện, biểu dương, nhân rộng các điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt trong cả nước.
Ủy ban Mặt trận các cấp và các tổ chức thành viên thường xuyên gặp gỡ, thăm hỏi, lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng của các vị tiêu biểu, trí thức, người có uy tín ở cộng đồng dân cư, trong các dân tộc, tôn giáo. Tham gia xây dựng, phản biện và giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách liên quan đến đồng bào dân tộc, tôn giáo. Ðề xuất các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển đối với đồng bào dân tộc thiểu số, tạo điều kiện để đồng bào các dân tộc, các tôn giáo tích cực tham gia xã hội hóa trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường. Vận động các tầng lớp nhân dân đề cao cảnh giác, đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc, kích động hòng thực hiện “diễn biến hòa bình”, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị, xã hội.
Tiếp tục vận động, tập hợp, đoàn kết người Việt Nam ở nước ngoài hướng về quê hương tham gia xây dựng phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Phối hợp với các đoàn thể, bộ ngành liên quan tích cực triển khai thực hiện Ðề án của Chính phủ “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài”; có biện pháp giúp đỡ, hỗ trợ hoạt động của các hội đoàn người Việt Nam ở nước ngoài; kiến nghị các cơ chế, chính sách phù hợp để người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là lực lượng trí thức, chuyên gia trên các lĩnh vực tham gia các chương trình phát triển kinh tế, xã hội.
Tiếp tục phối hợp với các tổ chức thành viên tích cực tham gia xây dựng, củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc thông qua kết nạp thêm thành viên là tổ chức và các cá nhân tiêu biểu, kết nạp đoàn viên, hội viên nhằm thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng của các giai cấp, tầng lớp, thành phần đa dạng trong xã hội. Ðặc biệt tăng cường củng cố, đoàn kết gắn bó trong từng cộng đồng dân cư, nâng cao chất lượng và hiệu quả tổ chức Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc ở khu dân cư vào dịp kỷ niệm ngày truyền thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hằng năm (18 tháng11), thực sự trở thành ngày hội của lòng dân, là đợt sinh hoạt chính trị – xã hội sâu rộng trong nhân dân, thắt chặt tình làng nghĩa xóm, gắn kết cán bộ, đảng viên với nhân dân.
CHƯƠNG TRÌNH 2: Phát huy tinh thần sáng tạo và tự quản của nhân dân, triển khai các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước
Trên cơ sở tổng kết 20 năm thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, cần đổi mới nội dung phương thức để phù hợp với yêu cầu phát triển nông thôn mới, đô thị văn minh trên tinh thần phát huy mạnh mẽ sáng kiến và khả năng tự quản của nhân dân. Phấn đấu thực hiện có hiệu quả việc vận động nhân dân xây dựng cơ sở hạ tầng, giảm nghèo bền vững, sản xuất nông nghiệp năng suất cao, thu nhập cao; làm cho cư dân đô thị và nông thôn có cuộc sống hài hòa, phát triển bền vững trên tinh thần đẩy mạnh xây dựng nền văn hóa mà trọng tâm là xây dựng con người phát triển toàn diện. Nâng cao tính thuyết phục, chất lượng bình xét, công nhận các danh hiệu Gia đình văn hóa, Khu dân cư văn hóa. Mặt trận phối hợp với chính quyền, các đoàn thể tiến hành tổng kết, rút kinh nghiệm và nhân ra diện rộng trong phạm vi cả nước các loại mô hình nhân dân tự quản ở phường, xã, khu dân cư để giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường, giữ gìn trật tự trị an, phát triển giáo dục, chăm lo sức khỏe nhân dân, giám sát đầu tư của cộng đồng, thanh tra nhân dân, thiết thực chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức xúc của nhân dân ngay từ cơ sở. Ðịnh kỳ tổ chức các hoạt động vinh danh “Gương sáng vì cộng đồng”, tuyên dương khu dân cư và Trưởng ban công tác Mặt trận tiêu biểu.
Ðổi mới phương thức thực hiện cuộc vận động “Vì người nghèo” với mục tiêu giảm nghèo bền vững, theo hướng: Mặt trận chủ trì hiệp thương phối hợp, giúp đỡ để mỗi đoàn thể chính trị – xã hội nhận giúp đỡ các hộ gia đình thoát nghèo theo địa chỉ, số lượng cụ thể từng năm ở mỗi phường, xã; rà soát và nhân rộng các mô hình hiệu quả của các đoàn thể, tổ chức thành viên trong xóa đói, giảm nghèo; Mặt trận tiếp tục chủ trì phát động tháng cao điểm vì người nghèo hằng năm, các tổ chức thành viên chủ động vận động và tiếp nhận các nguồn lực, đồng thời có sự hiệp thương thống nhất về mục tiêu phân bổ các nguồn lực theo yêu cầu của từng thời kỳ, cho từng đối tượng cụ thể. Tiếp tục thực hiện công tác cứu trợ, nhân đạo từ thiện, vận động giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn, gặp thiên tai, hoạn nạn.
Tiếp tục thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” có hiệu quả thiết thực hơn. Phối hợp với ngành Công thương triển khai Ðề án Phát triển thị trường trong nước gắn với cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” giai đoạn 2014 – 2020, vừa khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp trong nước sản xuất hàng hóa có chất lượng cao vừa thay đổi hành vi của người tiêu dùng, phát huy lòng tự hào dân tộc, đề cao trách nhiệm công dân đối với sự ổn định và phát triển kinh tế đất nước. Phát huy cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong quảng bá, xuất khẩu và tiêu dùng hàng Việt Nam. Tham mưu, phối hợp với các cấp ủy Ðảng, chính quyền đề xuất các giải pháp đẩy mạnh cuộc vận động, đồng thời thực hiện tốt vai trò điều phối của Ban chỉ đạo Cuộc vận động đối với việc kiểm tra, theo dõi, đôn đốc, bổ sung các chính sách kịp thời thúc đẩy cuộc vận động. Vận động cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần gương mẫu trong việc ưu tiên tiêu dùng hàng Việt Nam.
Ủy ban Mặt trận các cấp và các tổ chức thành viên phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các cơ quan chính quyền cùng cấp triển khai lồng ghép các chương trình phối hợp thực hiện mục tiêu quốc gia về bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nâng cao chất lượng dân số, phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, bảo đảm trật tự an toàn giao thông, góp phần phát huy tính tự quản, bảo đảm sự phát triển bền vững ngay từ mỗi địa bàn dân cư. Chú trọng phong trào xây dựng nền quốc phòng toàn dân và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; thực hiện chính sách hậu phương quân đội, chăm sóc gia đình liệt sĩ, thương bệnh binh, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng; tổ chức động viên thanh niên nhập ngũ, dạy nghề, giải quyết việc làm cho thanh niên xuất ngũ. Mở rộng các mô hình đoàn kết, kết nghĩa quân dân, kịp thời động viên lực lượng đang làm nhiệm vụ nơi biên giới, hải đảo.
CHƯƠNG TRÌNH 3: Phát huy dân chủ, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; giám sát và phản biện xã hội, tham gia xây dựng Ðảng và chính quyền vững mạnh
Ủy ban Mặt trận các cấp và các tổ chức thành viên phối hợp tuyên truyền, phổ biến Hiến pháp năm 2013 tới các tầng lớp nhân dân, nhất là những nội dung quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; đề xuất Nhà nước cụ thể hóa các nội dung trong Hiến pháp thành các quy định pháp luật; phối hợp tổ chức các diễn đàn nhân dân, hội nghị tiếp xúc cử tri của đại biểu dân cử, đa dạng hóa các kênh tiếp nhận, tập hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân với Ðảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; theo dõi, giám sát việc giải quyết các đề nghị chính đáng của nhân dân.
Mặt trận chủ động phối hợp với chính quyền và các tổ chức thành viên trong công tác giám sát và phản biện xã hội. Theo đó, những vấn đề lớn liên quan đến lợi ích của đông đảo các tầng lớp nhân dân sẽ do Mặt trận giữ vai trò chủ trì, hiệp thương với các đoàn thể, tổ chức thành viên để cùng tham gia. Các vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức chính trị – xã hội thì chủ động công việc giám sát, phản biện. Mặt trận và các đoàn thể chính trị – xã hội chủ động đề xuất, phối hợp với các cấp chính quyền liên quan lựa chọn giám sát các nội dung, lĩnh vực phù hợp, thiết thực với đời sống nhân dân. Có nhiều hình thức huy động trí tuệ của các tầng lớp nhân dân tham gia phản biện xã hội. Ðề xuất bổ sung trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (sửa đổi) quy định cụ thể về giám sát, phản biện xã hội.
Tổ chức góp ý và tập hợp ý kiến của các tầng lớp nhân dân tham gia vào các dự thảo văn kiện và đề xuất sáng kiến xây dựng Ðảng, xây dựng đất nước vào dịp Ðại hội Ðảng lần thứ XII. Ðề xuất sớm ban hành quy định về việc Ðảng vừa là thành viên, vừa lãnh đạo Mặt trận. Vận động nhân dân thực hiện đúng và đầy đủ quyền hạn, trách nhiệm trong Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 – 2021. Tổ chức các diễn đàn và các phương thức phù hợp để phát huy sáng kiến của nhân dân, nhất là đội ngũ trí thức ở trong và ngoài nước hiến kế xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Vận động nhân dân chủ động, tích cực tham gia cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí. Phối hợp đề xuất, xây dựng các cơ chế, phương thức phù hợp phản ánh tới cấp ủy Ðảng, chính quyền và trực tiếp đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí ở ngay tại mỗi địa bàn dân cư, cơ quan, đơn vị. Tích cực tham gia đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là ở phường, xã, nơi giải quyết những công việc liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân. Phối hợp và đề nghị chính quyền cùng cấp thực hiện trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch những vấn đề nhân dân yêu cầu. Hình thành cơ chế đánh giá sự hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của chính quyền cơ sở. Tham gia giám sát thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, nâng cao chất lượng hoạt động tiếp công dân, tham gia giải quyết và giám sát các cơ quan chính quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng và hoạt động hòa giải ở cơ sở.
Tiếp tục thực hiện tốt vai trò của Mặt trận trong thực hiện sáng kiến pháp luật, tham gia hoạch định chính sách, xây dựng, tuyên truyền phổ biến và thực thi pháp luật. Tập trung triển khai thực hiện có kết quả Ðề án tiếp tục xây dựng và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động chấp hành pháp luật trong cộng đồng dân cư giai đoạn 2013 – 2016.
CHƯƠNG TRÌNH 4: Mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại nhân dân, tăng cường đoàn kết hữu nghị và hợp tác quốc tế
Ủy ban Mặt trận các cấp và các tổ chức thành viên, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam phối hợp xây dựng chương trình, phân công trách nhiệm, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại nhân dân theo phương châm “chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả”, góp phần tăng cường tình hữu nghị và đoàn kết, hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới. Có biện pháp thiết thực, hiệu quả hơn trong quan hệ hợp tác với nhân dân các nước láng giềng và cộng đồng ASEAN, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, vì sự phát triển của mỗi quốc gia.
Tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện chủ trương đối ngoại của Ðảng, chính sách ngoại giao của Nhà nước. Triển khai việc nghiên cứu về đối ngoại nhân dân của Mặt trận và các tổ chức thành viên. Xây dựng chương trình thông tin, tuyên truyền đối ngoại về hình ảnh đất nước và con người Việt Nam. Tăng cường đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của Chính phủ và nhân dân các nước trên thế giới trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia. Phát huy vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp có hiệu quả vào các hoạt động đoàn kết, hữu nghị, thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác góp phần xây dựng và phát triển đất nước.
Mặt trận và các tổ chức thành viên mở rộng các hoạt động giao lưu, trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm, ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau với tổ chức nhân dân các nước bạn; nâng cao chất lượng các hoạt động phối hợp xây dựng đường biên giới hòa bình hữu nghị, hợp tác cùng phát triển; từng bước thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác với các tổ chức nhân dân tương đồng ở các nước trên thế giới; tiếp tục tham gia đóng góp tích cực vào hoạt động của Hiệp hội quốc tế các Hội đồng Kinh tế xã hội và các tổ chức tương đương; khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức thành viên tham gia các hội đồng, Ủy ban, các cơ chế tư vấn của Liên hợp quốc; mở rộng việc tham gia các cơ chế hợp tác, diễn đàn đa phương.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tăng cường trao đổi thông tin và quan hệ phối hợp với các cơ quan đại diện ngoại giao, các cơ quan của Liên hợp quốc, các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam để tăng cường hiểu biết, cơ hội hợp tác, thu hút thêm nguồn lực, tham khảo kinh nghiệm quốc tế góp phần thực hiện các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, giúp đỡ người nghèo, hoạt động nhân đạo từ thiện.
CHƯƠNG TRÌNH 5: Hoàn thiện cơ chế, nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới
Kế thừa, phát huy những bài học kinh nghiệm đạt được, đổi mới mạnh mẽ, mang tính đột phá trong việc thiết lập các cơ chế và phương thức hoạt động theo hướng phát huy cao độ vai trò chủ động, sáng tạo và sự đóng góp của các tổ chức thành viên, thực hiện vai trò chủ trì của Mặt trận theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động, tránh chồng chéo, không gây quá tải cho cơ sở. Thực hiện các quy chế, chương trình phối hợp, nhất là thực hiện tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội và tham gia xây dựng Ðảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. Mở rộng các phương thức phối hợp truyền thông, phổ biến các điển hình tiên tiến, kịp thời động viên, khen thưởng các tập thể và cá nhân xuất sắc, góp phần nâng cao hiệu quả các phong trào thi đua của các tổ chức thành viên và Ủy ban Mặt trận các cấp.
Kiện toàn Ủy ban Mặt trận các cấp để vừa bảo đảm tính đại diện, tiêu biểu cho khối đoàn kết toàn dân tộc, vừa nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn. Quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của thành viên là tổ chức và cá nhân tiêu biểu khi tham gia Ủy ban Mặt trận các cấp.
Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy phù hợp với chức năng, nhiệm vụ mới theo hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu quả. Bố trí cán bộ chuyên trách đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng và cơ cấu phù hợp với nhiệm vụ mới của Mặt trận trong giai đoạn hiện nay. Xây dựng tiêu chuẩn cán bộ chuyên trách của từng cấp và tiêu chuẩn chức danh phù hợp. Thực hiện quy hoạch và phối hợp luân chuyển cán bộ Mặt trận ở các cấp; coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên trách để có năng lực hoàn thành tốt nhiệm vụ. Thực hành phong cách của cán bộ Mặt trận theo phương châm: trọng dân, gần dân, học dân và có trách nhiệm với nhân dân. Tiếp tục thực hiện việc “Rèn luyện tư cách người cán bộ Mặt trận”. Tham mưu hoàn thiện cơ chế tài chính cho hoạt động của Mặt trận các cấp, sớm khắc phục những bất hợp lý về lương, phụ cấp, điều kiện làm việc đối với cán bộ chuyên trách, Ủy viên Ủy ban Mặt trận các cấp, Trưởng Ban công tác Mặt trận ở khu dân cư.
Ðổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các Hội đồng tư vấn, Ban tư vấn của Ủy ban Mặt trận các cấp. Phát huy mạnh mẽ vai trò của đội ngũ chuyên gia, cộng tác viên nhằm nâng cao năng lực tham mưu và tổ chức triển khai công việc của Ủy ban Mặt trận các cấp, nhất là công tác giám sát, phản biện xã hội. Ðẩy mạnh tổng kết và nghiên cứu lý luận về công tác Mặt trận. Mặt trận các cấp cần nhận thức đúng về vị trí, vai trò của công tác Mặt trận ở cơ sở: xác định phường, xã và khu dân cư là địa bàn quan trọng nhất của Mặt trận. Quan tâm hướng dẫn hoạt động, bồi dưỡng phương pháp công tác, bảo đảm điều kiện hoạt động và chế độ chính sách phù hợp cho Ban Công tác Mặt trận ở khu dân cư.
* * *
Ðại hội lần thứ VIII Mặt trận Tổ quốc Việt Nam diễn ra trong thời điểm lịch sử quan trọng của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với những thời cơ thuận lợi đan xen cùng khó khăn, thách thức. Hơn bao giờ hết, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có sứ mệnh phát huy truyền thống dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết của hơn 90 triệu người Việt Nam ở trong và ngoài nước tạo nên nội lực ngày càng mạnh mẽ và bền vững để phát triển đất nước, cùng nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý giữ vững hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên toàn thế giới.
Với tinh thần “Ðoàn kết – Dân chủ – Ðổi mới – Phát triển”, Ðại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VIII kêu gọi toàn thể đồng bào Việt Nam ta ở trong nước và nước ngoài đoàn kết, đồng lòng, chung sức, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và hạnh phúc.
(1) Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Ðảng (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Ðảng hiện nay”; Nghị quyết về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp bầu hoặc phê chuẩn; tổ chức lấy ý kiến rộng rãi các tầng lớp nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; Bộ Chính trị ban hành Quy chế Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội, Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Ðảng, xây dựng chính quyền…
(2) Tỷ lệ nghèo cả nước năm 2013 là 7,8%, ở Tây Bắc là 21,54%, Tây Nguyên là 12,50% và Tây Nam Bộ là 7,41%.
(3) Hằng năm có khoảng 500 nghìn lượt kiều bào về nước, trong đó khoảng hơn 300 chuyên gia, trí thức về làm việc và hàng nghìn người về tìm hiểu cơ hội đầu tư, kinh doanh. Hiện có hơn 3.500 doanh nghiệp trong nước do kiều bào thành lập hoặc góp vốn của kiều bào với tổng số vốn đăng ký khoảng 8,4 tỷ USD. Kiều hối gửi về nước tăng trung bình 10-15%/năm. Năm 2009 là 6,83 tỷ USD, năm 2010 đạt mức 8,6 tỷ USD, năm 2011 là 9 tỷ USD, năm 2012 đạt 10 tỷ USD, năm 2013 đạt gần 11 tỷ USD.
(4) Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã triển khai 02 Ðề án quan trọng về công tác dân tộc, công tác tôn giáo; phối hợp tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 06/2008/CT-TTg ngày 1-2-2008 của Thủ tướng Chính phủ về phát huy vai trò của người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đề xuất với Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và ban hành Chương trình 135 về hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất cho các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu, các thôn, bản đặc biệt khó khăn (gọi tắt là Chương trình 135 giai đoạn III); rà soát các Chương trình phát triển kinh tế – xã hội cho các xã đặc biệt khó khăn và đề xuất Chính phủ bổ sung các chính sách mới…
(5) Ðến nay, cả nước đã có 19 địa phương thành lập được Hội Liên lạc và Thân nhân kiều bào gồm: Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Thuận, Kiên Giang, Sóc Trăng, Tây Ninh, Vĩnh Long, Phú Thọ, Phú Yên, Quảng Ninh, Hải Dương, Ðác Lắc, Ðồng Tháp, Hòa Bình, Thừa Thiên – Huế, TP Hồ Chí Minh, TP Cần Thơ, TP Ðà Nẵng, TP Hà Nội, TP Hải Phòng.
(6) Chỉ thị 1869/CT-TTg ngày 10-10-2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” trong giai đoạn mới; Chương trình phối hợp chỉ đạo thực hiện nâng cao chất lượng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” trong giai đoạn mới (số 12/CTrPH-MTTW-BVHTTDL ngày 29-9-2011); Thông tư quy định chi tiết về tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục, hồ sơ công nhận Danh hiệu “Gia đình văn hóa”; “Thôn văn hóa”, “Làng văn hóa”, “Ấp văn hóa”, “Bản văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa” và tương đương (số: 12/2011/TT-BVHTTDL ngày 10-10-2011)…
(7) Hưởng ứng phong trào “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, trong 3 năm qua nhân dân đã tự nguyện hiến hơn 12 triệu m2 đất để làm đường, công trình công cộng… Nhiều tổ chức thành viên của Mặt trận đã có các chương trình, phong trào tham gia xây dựng nông thôn mới: Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh tiếp tục triển khai cuộc vận động “Tuổi trẻ chung tay xây dựng nông thôn mới”. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam lấy cuộc vận động xây dựng “Gia đình 5 không 3 sạch” làm nòng cốt nhằm thực hiện có hiệu quả các tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Hội Nông dân Việt Nam tổ chức Phong trào “Nông dân thi đua xây dựng nông thôn mới”. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tổ chức “Phong trào liên kết phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp và phát triển nông thôn”. Hội Cựu chiến binh Việt Nam tổ chức phong trào “Cựu chiến binh hiến kế, hiến công xây dựng quê hương, đất nước” góp phần xây dựng nông thôn mới…
(8) Các mô hình tự quản về phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội được nhân rộng ở nhiều địa phương như “Tổ liên gia”, “Tổ tự quản”, trong đó tiêu biểu là mô hình “Gia đình, dòng họ tự quản”. TP Hà Nội với phong trào “Vào từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng”; tỉnh Bình Phước với Chương trình “5 giảm”; tỉnh Ðồng Nai với Chương trình “4 giảm” (tội phạm, ma túy, mại dâm, tai nạn giao thông); tỉnh Hưng Yên phát động phong trào thi đua xây dựng “Khu dân cư 3 không” (không tội phạm, ma túy, mại dâm) gắn với xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh; tỉnh Bình Dương thực hiện mô hình “Chủ nhà trọ văn hóa”; 50% phường xã ở Bắc Giang có mô hình tự quản về trật tự an toàn xã hội…
(9) Ðến cuối năm 2013 cả nước đã có 17.168.976 gia đình đạt chuẩn danh hiệu Gia đình văn hóa, chiếm tỷ lệ hơn 60%; 67.258/105.429 khu dân cư đạt danh hiệu khu dân cư văn hóa, chiếm tỷ lệ 63,79%. Tỉnh Quảng Nam triển khai mô hình “Tộc văn hóa”, “5 đoàn kết – 3 trong sạch”. Tỉnh Thanh Hóa ban hành Kế hoạch “3 không” (khu dân cư: không có tội phạm, không ô nhiễm môi trường, không vi phạm hương ước xây dựng nếp sống văn hóa); xây dựng được trên 21.600 tổ tự quản bảo vệ môi trường. Mặt trận TP Ðà Nẵng tổ chức phong trào xây dựng “Thành phố 5 không” và “3 có”. Mặt trận tỉnh Quảng Ngãi xây dựng “Ðiểm sáng khu dân cư sáu không”, họ tộc “ba không”, mô hình “ba giảm, bốn giữ”. TP Hà Nội vận động “Toàn dân thực hiện tang văn minh tiến bộ”, triển khai 3.751 mô hình điểm khu dân cư tự quản về môi trường ở 29 quận, huyện, thị xã…
(10) Ðợt vận động “Mái ấm cho người nghèo nơi biên giới, hải đảo” đã xây dựng được 3.460 nhà Ðại đoàn kết, 146 công trình dân sinh, tổng trị giá gần 150 tỷ đồng.
(11) Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia tổng kết 4 vấn đề: (1) Giải quyết các vấn đề xã hội trong tình hình mới; (2) Ðổi mới hệ thống chính trị; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; (3) Xây dựng Ðảng cầm quyền, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Ðảng; (4) Việc thực hiện giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội qua 30 năm đổi mới.
(12) Mỗi năm Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia góp ý kiến cho khoảng 60 dự án luật, pháp lệnh và nghị định.
(13) Dự án Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam dự kiến sẽ được trình Quốc hội khóa XIII cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8 và thông qua tại kỳ họp thứ 9.
(14) Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã hướng dẫn các địa phương triển khai thực hiện Ðề án “Tiếp tục xây dựng và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động chấp hành pháp luật trong cộng đồng dân cư giai đoạn 2013-2016”; Ðề án “Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh thiếu niên”; Ðề án “Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng, chống tham nhũng, Công ước của Liên hiệp quốc về chống tham nhũng trong cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân”; Ðề án “Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nước về quyền con người” lồng ghép vào Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”…
(15) Tính đến nay, tổng số Ban thanh tra nhân dân toàn quốc là: 11.139 ban/11.144 xã, phường, thị trấn, chiếm tỷ lệ 99,95%. Số ban đảm nhiệm vai trò giám sát đầu tư của cộng đồng là 6.443. Có 8.041 Ban giám sát đầu tư của cộng đồng.
(16) Cả nước có 112.638 tổ hòa giải. Bình quân mỗi năm nhận hòa giải trên 335.000 vụ, việc. Số vụ hòa giải thành công đạt trên 80%.
(17) “Việc thi hành Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ cho đầu tư xây dựng cơ bản, giai đoạn 2006-2012”; “Việc thực hiện chính sách pháp luật về giảm nghèo giai đoạn 2005 – 2012 tại các địa phương”; “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm y tế giai đoạn 2009 – 2012”; “Việc thực hiện chính sách, pháp luật trong công tác tuyển dụng, đào tạo, bổ nhiệm đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức”; “Việc thực hiện chính sách pháp luật về đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số”…
(18) Vụ việc ông Ðoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng, Hải Phòng; Vụ Nông trường Sông Hậu; việc quản lý giá sữa cho trẻ em dưới 6 tuổi; chấn chỉnh việc khai thác cát trái pháp luật tại một số địa phương…
(19) Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia tổ chức các hoạt động “Năm đoàn kết, hữu nghị Việt Nam – Lào 2012” và “Năm hữu nghị Việt Nam – Campuchia 2012”; phối hợp tổ chức lễ kỷ niệm 35 năm Ngày chiến thắng chiến tranh biên giới Tây-Nam và cùng quân, dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng; phối hợp tổ chức “Hội nghị quốc tế Xây dựng đường biên giới hòa bình hữu nghị Việt Nam – Lào”, “Hội nghị quốc tế xây dựng đường biên giới hòa bình hữu nghị Việt Nam-Campuchia”; ký kết bản ghi nhớ với Chính hiệp Trung Quốc… Ủy ban Mặt trận nhiều tỉnh, thành phố như: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Sơn La, Nghệ An, Thanh Hóa, Thừa Thiên-Huế, Gia Lai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Lâm Ðồng, Kon Tum, Kiên Giang, An Giang… đã tăng cường các hình thức vận động, xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước láng giềng, các nước trong khu vực và trên thế giới; duy trì tốt các hoạt động đối ngoại về xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị; phối hợp tuyên truyền nâng cao nhận thức của nhân dân về chủ quyền quốc gia và tham gia bảo đảm an ninh biên giới; đẩy mạnh phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc tại các xã khu vực biên giới.
(20) Tổng số Ủy viên Ủy ban Mặt trận các cấp là 393.980 người (trong đó cấp T.Ư là 356 người, cấp tỉnh là 5.163 người, cấp huyện là 35.541 người, cấp xã là 360.695 người); Số lượng tổ chức thành viên cấp Trung ương tăng: 2, cấp tỉnh: tăng 89, cấp huyện: tăng 225; Số lượng cá nhân tiêu biểu tham gia Ủy ban Mặt trận cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã tăng tương ứng là 55 người, 2.582 người và 15.939 người.
(21) Chủ tịch Mặt trận các cấp: cấp tỉnh có 56/63 Chủ tịch Mặt trận chuyên trách, 07 kiêm nhiệm; 62 Chủ tịch Mặt trận tham gia cấp ủy; trong đó 41 là Thường vụ cấp ủy (so với đầu nhiệm kỳ tăng 58,5%); Cấp huyện có 580/695 Chủ tịch chuyên trách, 115 kiêm nhiệm, 652 là Huyện ủy viên, trong đó 405 là Thường vụ (so với đầu nhiệm kỳ tăng 58%); Cấp xã: có 3.160/11.109 Chủ tịch Mặt trận là Thường vụ Ðảng ủy (so với đầu nhiệm kỳ tăng 18%).
(22) Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ và Nghiên cứu khoa học Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thành lập và đi vào hoạt động từ 1-1-2013. Trong nhiệm kỳ, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tổ chức bồi dưỡng, tập huấn cho 2.500 lượt cán bộ; Ủy ban Mặt trận các địa phương tổ chức được 4.130 lớp tập huấn cho 123.900 lượt cán bộ.
(23) Hội đồng tư vấn: cấp Trung ương: 07 Hội đồng với tổng số 159 người; cấp tỉnh: 52/63 tỉnh, thành phố thành lập 140 Hội đồng tư vấn với 1.350 người; cấp huyện 299 Ban tư vấn với tổng số 2.634 người.
(24) Tổng số Ban Công tác Mặt trận là 102.968, trong đó 60.818 Trưởng ban Công tác Mặt trận chuyên trách (chiếm tỷ lệ 59%); 33.853 Trưởng ban do Bí thư Chi bộ kiêm (chiếm tỷ lệ 32,87%); 1.522 Trưởng ban do Trưởng thôn hoặc Tổ trưởng dân phố kiêm (chiếm tỷ lệ 1,47%); 6.770 Trưởng ban do các chức danh khác kiêm (chiếm tỷ lệ 6,57%). Ðã có 62/63 tỉnh, thành phố có chế độ phụ cấp cho Trưởng ban Công tác Mặt trận ở khu dân cư.
(25) Ban hành Quy chế phối hợp thống nhất hành động của các tổ chức thành viên trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (thay thế cho Quy chế cũ ban hành từ năm 1997); ban hành Chương trình phối hợp hằng năm giữa Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Trung ương các đoàn thể chính trị-xã hội; phối hợp rà soát, thống nhất các phong trào, cuộc vận động để tránh chồng chéo về nội dung, đối tượng, nhất là ở địa bàn dân cư; thống nhất nội dung, cách thức triển khai, có phân công, phân nhiệm giữa Mặt trận và các tổ chức thành viên trong triển khai một số hoạt động giám sát; tăng cường phối hợp giữa các cơ quan báo chí, truyền thông của Mặt trận và các tổ chức thành viên trong tuyên truyền, phản ánh về công tác Mặt trận và tình hình các tầng lớp nhân dân…
Theo Nhandan.vn
Ý kiến ()