Phát huy lợi thế của thời kỳ cơ cấu dân số vàng
Quy mô dân số của Việt Nam hiện đứng thứ 15 thế giới, tốp 3 khu vực Đông Nam Á và hiện đang trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng, với tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động cao. Thời kỳ dân số vàng là cơ hội “có một không hai” để các quốc gia phát triển kinh tế-xã hội. Nhưng muốn phát huy được cơ hội vàng đó, nguồn lao động này phải “vàng” về tri thức, kỹ năng và tay nghề thì mới biến giấc mơ “hóa rồng” thành hiện thực.
Việt Nam hiện đang trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng với tỷ lệ người trong độ tuổi lao động cao. Trong ảnh: Kỹ sư Công ty TNHH Phần mềm FPT làm việc tại Khu Công nghệ cao Hòa Lạc, Hà Nội. (Ảnh: THANH LÂM) |
Việt Nam bước vào thời kỳ cơ cấu dân số vàng từ năm 2007. Tuy nhiên, sự suy giảm tỷ lệ sinh và hạn chế mức sinh đang khiến cho quá trình già hóa dân số diễn ra nhanh, dự báo Việt Nam sẽ trở thành quốc gia có dân số già vào năm 2036.
Chất lượng lao động chưa cao
Theo các nhà nhân khẩu học, cơ cấu dân số vàng là thời kỳ mà tỷ lệ những người từ 15 tuổi đến 64 tuổi (những người có thể có khả năng lao động) từ chiếm 66% tổng số dân trở lên. Đây là cơ cấu rất hiếm gặp được đánh giá quý và hiếm như vàng.
GS Nguyễn Đình Cử, nguyên Viện trưởng Dân số và Các vấn đề xã hội (Trường đại học Kinh tế quốc dân) đánh giá giai đoạn cơ cấu dân số vàng của Việt Nam kéo dài từ 30 đến 35 năm. Hiện tỷ lệ người từ 15 đến 64 tuổi của nước ta là 67,5%, như vậy với quy mô khoảng 100 triệu dân, số người có khả năng lao động tương ứng là 67,5 triệu. Đây là dư lợi lớn về lao động do cơ cấu dân số vàng mang lại, tạo cơ hội cho tăng trưởng kinh tế nhanh. Nhiều nước như Nhật Bản, Hàn Quốc… đã có bước phát triển kinh tế “thần kỳ” trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng.
Tuy nhiên cơ cấu dân số vàng cũng chỉ mang lại cơ hội cho tăng trưởng kinh tế, phát triển đất nước. Để tận dụng được cơ hội này, những người trong độ tuổi lao động phải khỏe mạnh, đủ sức làm việc và phải đủ trình độ; những người đủ sức làm việc phải có việc làm và những người có việc làm phải làm việc với năng suất cao.
Hiện nay, lao động trong khu vực nông, lâm, ngư nghiệp chiếm khoảng 30%, cao hơn rất nhiều so với các nước phát triển (khoảng 3% đến 4%). Bên cạnh đó, tỷ lệ lao động được đào tạo chuyên môn, kỹ thuật còn thấp, là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến năng suất lao động của Việt Nam chưa cao… Vì vậy, nâng cao năng suất lao động đang là thách thức lớn nhất để đưa nền kinh tế của nước ta đột phá tăng trưởng nhanh hơn nữa, sớm trở thành nền kinh tế có thứ hạng cao trên thế giới, tương xứng với quy mô dân số.
Hiện tỷ lệ người từ 15 đến 64 tuổi của nước ta là 67,5%, như vậy với quy mô khoảng 100 triệu dân, số người có khả năng lao động tương ứng là 67,5 triệu. Đây là dư lợi lớn về lao động do cơ cấu dân số vàng mang lại, tạo cơ hội cho tăng trưởng kinh tế nhanh. Nhiều nước như Nhật Bản, Hàn Quốc… đã có bước phát triển kinh tế “thần kỳ” trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng. GS Nguyễn Đình Cử, nguyên Viện trưởng Dân số và Các vấn đề xã hội (Trường đại học Kinh tế quốc dân) |
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến cuối năm 2022, cả nước có 51,7 triệu người trong độ tuổi lao động. Tuy nhiên, có tới 73,8% số người trong độ tuổi lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật; chỉ 26,2% lao động có chuyên môn kỹ thuật (trình độ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học). Tính đến quý I/2023, trong số 52,2 triệu người thuộc lực lượng lao động, vẫn có khoảng 38,1 triệu lao động chưa qua đào tạo. Điều này càng đặt ra những vấn đề cấp bách khi đất nước muốn ứng dụng công nghệ cao để tăng tốc phát triển.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, Việt Nam chưa khai thác được hiệu quả lợi thế của cơ cấu dân số vàng. Nguyên nhân là do chất lượng nguồn nhân lực cũng như năng suất lao động còn hạn chế. Chúng ta chưa tận dụng được nguồn lao động dồi dào mà chủ yếu là khai thác lao động giá rẻ và lao động giản đơn, hiện 33,2% việc làm kỹ năng thấp, chỉ có 11,2% việc làm kỹ năng cao (trung bình các nước phát triển trên thế giới là 20%).
Cơ cấu lao động theo khu vực kinh tế chưa hợp lý, lao động làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn chiếm tỷ lệ cao; số lượng lao động tăng nhanh nhưng ở khu vực phi chính thức; lao động thời vụ tăng nhưng hạn chế về kỹ năng… Thị trường lao động đang thiếu hụt lao động kỹ thuật trình độ cao, nhất là tại một số ngành dịch vụ như: Ngân hàng, tài chính, thông tin, viễn thông, du lịch và những ngành công nghiệp mới. Ngoài ra, thể lực của lao động Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được cường độ làm việc cao và những yêu cầu trong sử dụng máy móc thiết bị theo tiêu chuẩn quốc tế.
Tận dụng hai yếu tố “trẻ và lớn”
Dân số trẻ, quy mô lớn, nhưng mức thu nhập vẫn chỉ là trung bình thấp. Vậy làm thế nào để tận dụng hai yếu tố “trẻ và lớn” để nâng cao mức thu nhập cho người lao động đang là bài toán cần tìm lời giải. Theo Giáo sư, Tiến sĩ Giang Thanh Long (Trường đại học Kinh tế quốc dân), nếu nhìn về cơ cấu, độ tuổi trong khoảng 100 triệu dân hiện nay, chúng ta có thể tận dụng được những tinh túy của dân số vàng hay không, đó là vấn đề cần phải bàn. Dân số vàng nhưng đồng thời cũng đang già.
Như một người đang ở tuổi 35-40, có nghĩa là khoảng hơn 20 năm nữa sẽ xếp vào khu vực dân số già. Nếu thời điểm này vẫn đang chung chiêng về nghề nghiệp thì gần như không có nguồn lực để lo tuổi già. Do đó, cần phát triển hệ thống y tế, giáo dục để thúc đẩy phát triển nhân lực, thể lực, trí lực, giúp người lao động Việt Nam được ra ở tuyến đầu và tuyến cuối của chuỗi sản xuất toàn cầu. Nếu nằm ở giữa chuỗi thì sẽ mãi thu nhập thấp, năng suất sẽ không tăng lên được.
Mục tiêu của nước ta là đến năm 2045 đạt thu nhập trung bình cao. Chúng ta đang có lợi thế cơ cấu dân số trẻ, với lực lượng nhân lực trong độ tuổi thanh niên 15-24 hiện có khoảng hơn 18 triệu người, nếu tận dụng tốt được lực lượng này chắc chắn đạt được tăng trưởng cao. Nhưng có tận dụng được hay không phụ thuộc nhiều vào chính sách.
Những chính sách đưa ra cần đồng bộ từ vĩ mô đến vi mô, từ các chính sách về kinh tế đến giáo dục, y tế, sức khỏe, an sinh xã hội để tạo ra một lực lượng lao động với sức khỏe tốt, chất lượng cuộc sống tốt, khi đó họ sẽ lao động, cống hiến, tạo năng suất lao động hiệu quả. Việt Nam cần chớp lấy thời cơ dân số vàng để phát triển vì cơ hội này sẽ không quay trở lại, nếu có phải ít nhất 100 đến 200 năm sau.
GS Nguyễn Đình Cử nêu rõ, đối với nước ta, xu hướng già hóa dân số đang diễn ra nhanh, nên giai đoạn cơ cấu dân số vàng chỉ kéo dài trong khoảng 30 năm. Hiện nay trật tự và hoạt động kinh tế thế giới đang thay đổi mạnh mẽ; gia tăng quá trình toàn cầu hóa dịch vụ; chuỗi cung ứng toàn cầu linh hoạt, ứng dụng công nghệ số, thúc đẩy thương mại điện tử minh bạch là các yếu tố không thể tách rời với xu hướng phát triển bền vững. Kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, để hội nhập thành công vào nền kinh tế toàn cầu và tận dụng thành công cơ hội của cơ cấu dân số vàng đòi hỏi lực lượng lao động phải “thật sự vàng” về tri thức và kỹ năng, tay nghề.
Do vậy, Chính phủ cần hoàn thiện thể chế, chính sách đồng bộ, thống nhất nhằm tạo dựng và nâng cao hiệu quả vận hành thị trường lao động linh hoạt, hội nhập và bền vững đáp ứng nhu cầu lao động của doanh nghiệp, xu hướng chuyển đổi chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực. Cùng đó là chủ động đào tạo lại, đào tạo thích ứng cho lực lượng lao động đang làm việc; đồng thời thực hiện phương châm học suốt đời, học linh hoạt nhằm nâng cao trình độ và kỹ năng của người lao động.
Việt Nam đang khai thác lợi thế về cơ cấu dân số vàng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng để nắm bắt được cơ hội, tận dụng được thời cơ thì cần phải có những đột phá quan trọng về phát triển chất lượng nguồn nhân lực. Xét cho cùng, con người trong mọi lĩnh vực, trên mọi phương diện và ở mọi thời điểm luôn là yếu tố quyết định, bảo đảm thành công cho tất cả các mục tiêu.
Cần nâng cao nhận thức của công nhân, người lao động để họ thấy rõ việc học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp vừa là quyền lợi vừa là yêu cầu để bảo đảm việc làm, nâng cao thu nhập, nâng cao năng suất lao động, bảo đảm chất lượng sản phẩm, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh… Đa dạng hóa ngành nghề ở nông thôn, tạo việc làm cho lực lượng lao động trẻ, thanh niên.
Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi lĩnh vực giáo dục phải thay đổi mạnh mẽ để theo kịp sự thay đổi của thế giới, bảo đảm nguồn nhân lực có tính cạnh tranh. Mặt khác, Việt Nam đang hội nhập sâu, rộng với thế giới, đòi hỏi người lao động không chỉ có nghề mà còn phải có nhiều kỹ năng; năng suất lao động là một yếu tố quan trọng nhưng quan trọng nhất là đào tạo một con người toàn diện.
Để hưởng trọn vẹn lợi ích mà lợi thế dân số vàng mang lại, Quỹ Dân số Liên hợp quốc khuyến nghị Việt Nam tiếp tục đầu tư vào thanh, thiếu niên thông qua các chính sách và chương trình y tế, giáo dục, cơ hội việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động trong kỷ nguyên mới. Nếu biết tận dụng quy mô cùng cơ cấu dân số vàng mang lại, Việt Nam sẽ trở thành quốc gia hùng cường, thịnh vượng trong tương lai không xa. |
Thời kỳ cơ cấu dân số vàng của một quốc gia là khi nhóm dân số trẻ em (0-14 tuổi) chiếm tỷ trọng thấp hơn 30% và nhóm dân số cao tuổi chiếm tỷ trọng thấp hơn 15%. Tuy nhiên xu hướng già hóa dân số ở nước ta đang diễn ra nhanh, tỷ trọng nhóm dân số trẻ từ 0-14 tuổi liên tục giảm từ 24,5% năm 2009 xuống 24,3% năm 2019 và 24,1% năm 2022; trong khi nhóm dân số người cao tuổi từ 65 tuổi trở lên liên tục tăng từ 6,4% năm 2009, lên 7,7% năm 2019 và 8,5% năm 2022. Dự báo Việt Nam sẽ trở thành quốc gia có dân số già vào năm 2036. |
Nguồn: https://nhandan.vn/phat-huy-loi-the-cua-thoi-ky-co-cau-dan-so-vang-post749254.html
Theo nhandan.vn
Ý kiến ()