Phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, thảo luận, quyết định những vấn đề quan trọng đối với sự phát triển bền vững của đất nước
(Bài phát biểu của Tổng Bí thư NGUYỄN PHÚ TRỌNG)
(Bài phát biểu của Tổng Bí thư NGUYỄN PHÚ TRỌNG)
Thưa các đồng chí Trung ương,
Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị,
Thực hiện Chương trình làm việc toàn khóa, hôm nay, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI bắt đầu họp Hội nghị lần thứ bảy để xem xét, quyết định, cho ý kiến chỉ đạo đối với các vấn đề: Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; Ðổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác dân vận; Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; Sơ kết một năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Ðảng; Quy hoạch cán bộ cấp chiến lược; Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường; và một số vấn đề quan trọng khác.
Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tôi nhiệt liệt chào mừng các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và các đại biểu tham dự Hội nghị; xin gửi tới các đồng chí lời chúc tốt đẹp nhất.
Thưa các đồng chí,
Thời gian qua, Bộ Chính trị đã chỉ đạo Ban cán sự đảng Chính phủ, các ban đảng và các cơ quan hữu quan khẩn trương chuẩn bị các đề án, báo cáo, tờ trình để gửi Trung ương theo Quy chế làm việc; các đồng chí đã nghiên cứu trước. Sau đây, tôi xin phát biểu một số ý kiến có tính chất gợi mở, nêu vấn đề, mong được các đồng chí quan tâm trong quá trình thảo luận, xem xét, quyết định. Tập trung vào các nội dung sau:
1- Về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở
Chúng ta biết, khái niệm “hệ thống chính trị” được dùng ở nước ta lần đầu tiên tại Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (tháng 3-1989), sau đó được chính thức đưa vào Cương lĩnh năm 1991. Hệ thống chính trị bao gồm Ðảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội từ Trung ương đến cơ sở, liên quan đến cả cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành, bố trí cán bộ, phương thức hoạt động, lề lối làm việc và chế độ, chính sách đãi ngộ… rất phức tạp, nhạy cảm. Do đó, Ðảng ta chủ trương phải lấy đổi mới kinh tế là trọng tâm, đồng thời đổi mới hệ thống chính trị từng bước vững chắc. Thực tế hơn 20 năm qua cho thấy, đây là một chủ trương đúng, chúng ta đã thực hiện nghiêm túc và nhờ thế đã thu được những kết quả rất quan trọng.
Ðể chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần này, hơn một năm qua, Bộ Chính trị đã chỉ đạo tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX “Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn”; sơ kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa X “Về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, định hướng về đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội”; đồng thời đã nghe báo cáo một số chuyên đề về: Kết quả thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân ở một số huyện, quận, phường; thí điểm mô hình bí thư kiêm chủ tịch ủy ban nhân dân xã… Trên cơ sở đó xây dựng Ðề án “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở” trình Trung ương xem xét, ban hành Nghị quyết về vấn đề này.
Chúng ta cần tập trung thảo luận, đánh giá toàn diện các vấn đề liên quan đến việc quán triệt và tổ chức thực hiện các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, chỉ ra mặt được và mặt chưa được, phân tích nguyên nhân, đề xuất các quan điểm, chủ trương và biện pháp khắc phục những hạn chế, yếu kém. Chú ý làm rõ, vì sao ở một số nơi vai trò lãnh đạo của cấp ủy và tổ chức đảng chưa được phát huy đầy đủ; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chậm được nâng cao; việc đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội chưa mạnh, tình trạng “hành chính hóa” chậm được khắc phục? Vì sao cải cách hành chính chưa đạt được kết quả mong muốn; bộ máy tổ chức và tổng biên chế vẫn tiếp tục phình to, nhất là ở cấp tổng cục, các đơn vị trực thuộc bộ và chính quyền cơ sở. Tình trạng “tách ra, nhập vào”, “nhập vào, tách ra” vẫn lặp đi lặp lại. Hoạt động của nhiều ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy khối vẫn lúng túng. Giữa các bộ, ngành vẫn còn một số nội dung quản lý nhà nước trùng lắp hoặc chưa được phân công cụ thể, rõ ràng. Việc phân cấp của Trung ương cho chính quyền địa phương, của cấp trên đối với cấp dưới nhìn chung chưa thật hợp lý; có lĩnh vực quá rộng, thiếu sự kiểm tra, giám sát, ảnh hưởng đến sự quản lý thống nhất cả nước; có lĩnh vực lại quá hẹp, không phát huy được quyền chủ động, tính năng động, sáng tạo của địa phương. Các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện sau khi sắp xếp lại tuy có giảm đầu mối trực thuộc ủy ban nhân dân nhưng lại tăng các đơn vị bên trong các sở, ngành. Vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về vị trí, vai trò, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường. Vấn đề biên chế, phụ cấp cho cán bộ cơ sở vẫn chưa có lời giải thấu đáo. Số các hội quần chúng được lập mới vẫn tăng nhanh, một số hội đề nghị có biên chế cán bộ, công chức và hưởng kinh phí từ ngân sách nhà nước,… Trên cơ sở đánh giá, phân tích những mặt hạn chế, yếu kém đó, cần có giải pháp gì để khắc phục một cách cơ bản.
2- Về đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới
Tổng kết quá trình cách mạng Việt Nam, Cương lĩnh chính trị (năm 2011) của Ðảng đã rút ra 5 bài học, trong đó có bài học: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử; toàn bộ hoạt động của Ðảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân; sức mạnh của Ðảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân; quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ và của Ðảng. Công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Ðảng và dân tộc.
Trong nhiều năm qua, nhất là từ khi ban hành Nghị quyết Trung ương 8b, khóa VI, công tác quần chúng của Ðảng tiếp tục được đổi mới, góp phần làm nên những thành tựu có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vấn đề đặt ra là vì sao lúc này chúng ta lại phải bàn về đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác dân vận.
Phải chăng là do bối cảnh, tình hình đã và đang có nhiều thay đổi. Bên cạnh mặt thuận lợi cơ bản, cũng xuất hiện không ít khó khăn, thách thức mới, đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ mới và bản thân công tác dân vận hiện còn những hạn chế, yếu kém? Ví dụ như: Kinh tế thị trường phát triển, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đồng thời với những tác động tích cực, đã và đang xuất hiện những mặt trái, tiêu cực tác động hằng ngày, hằng giờ đến đời sống, tư tưởng, tình cảm của nhân dân. Tình trạng phân hóa giàu nghèo, phân cực, phân tầng xã hội; những biến đổi về quan hệ lợi ích, hệ giá trị xã hội; sự cách biệt về kinh tế, xã hội… làm nảy sinh tiền đề của sự phân hóa về nhận thức, tư tưởng. Những khó khăn về kinh tế – xã hội và đời sống hiện nay cùng với tính chất lâu dài, phức tạp và cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa tiến bộ và lạc hậu trong bước chuyển quá độ lên chủ nghĩa xã hội đang tác động đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân. Những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,… đang làm tổn thương đến uy tín của Ðảng và Nhà nước, làm giảm sút niềm tin của nhân dân. Lợi dụng những khó khăn của nước ta trên con đường phát triển, các thế lực thù địch đang đẩy mạnh các hoạt động “diễn biến hòa bình”, xuyên tạc đường lối, chính sách của Ðảng, Nhà nước, nói xấu chế độ, bôi nhọ đội ngũ cán bộ lãnh đạo, tìm mọi thủ đoạn phân hóa nội bộ Ðảng, kích động chia rẽ nhân dân với Ðảng, Nhà nước.
Trong khi đó chúng ta lại chậm đổi mới, cụ thể hóa cơ chế Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Sự phối hợp giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị có lúc, có nơi còn thiếu chặt chẽ. Trách nhiệm của cấp ủy và chính quyền trong công tác dân vận ở nhiều nơi bị xem nhẹ, chỉ dựa chủ yếu vào bộ máy hành chính và biện pháp hành chính. Một số tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể nhân dân hoạt động kém năng động, hiệu quả, không nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và cũng không đủ sức tuyên truyền, vận động, giải quyết những bức xúc của nhân dân. Tổ chức, hoạt động của các cơ quan chuyên trách làm công tác dân vận và của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân chậm được đổi mới, tăng cường. Ðội ngũ cán bộ làm công tác dân vận ít được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực và cũng chưa được quan tâm đúng mức về chế độ, chính sách…
Nhận rõ những khó khăn, thách thức, thấy hết những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân, chúng ta cần xác định đúng mục tiêu, yêu cầu, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và nhiệm vụ, giải pháp để đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới. Phải chăng vấn đề có ý nghĩa quyết định để tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Ðảng và nhân dân hiện nay vẫn là Ðảng phải hết lòng, hết sức chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; củng cố, xây dựng tổ chức đảng và bộ máy chính quyền thật trong sạch, vững mạnh; khắc phục cho được những hiện tượng tiêu cực trong cán bộ, đảng viên, công chức, làm cho Ðảng thật sự xứng đáng là người lãnh đạo và người công bộc trung thành của nhân dân.
3- Về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Thực hiện các Nghị quyết của Trung ương và Quốc hội về sửa đổi Hiến pháp năm 1992, thời gian qua, cán bộ, đảng viên và đông đảo các tầng lớp nhân dân đã nhiệt liệt hưởng ứng, tích cực tham gia góp ý vào việc sửa đổi Hiến pháp. Hoạt động lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã thực sự là đợt sinh hoạt chính trị dân chủ, sâu rộng trong xã hội. Ðồng bào, chiến sĩ cả nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã có nhiều ý kiến tâm huyết, thẳng thắn và trách nhiệm về cả nội dung và kỹ thuật lập hiến đối với hầu hết các chương, điều của Dự thảo. Bên cạnh đó, cũng có những ý kiến góp ý, nhận định chưa phù hợp, thậm chí có một số ít lợi dụng việc góp ý kiến để xuyên tạc, chống phá chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trên các phương tiện thông tin, truyền thông, nhiều cán bộ, đảng viên và các nhà nghiên cứu đã trao đổi, phân tích, làm sáng tỏ nhiều vấn đề, góp phần tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội đối với những nội dung cơ bản của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp; đồng thời kiên quyết đấu tranh với những luận điệu tuyên truyền chống phá của các thế lực thù địch và số đối tượng cơ hội chính trị.
Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã chỉ đạo tập hợp, tổng hợp, phân loại, nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến xác đáng; phân tích, giải trình lý do không tiếp thu những góp ý chưa phù hợp. Bộ Chính trị cũng đã thảo luận, có ý kiến chỉ đạo định hướng cho việc tiếp thu, giải trình. Ðề nghị các đồng chí Trung ương bám sát Cương lĩnh của Ðảng, các Nghị quyết, Kết luận của Hội nghị Trung ương 2 và Hội nghị Trung ương 5 về sửa đổi Hiến pháp năm 1992, nghiên cứu thật kỹ, thảo luận thật sâu các nội dung Báo cáo giải trình, tiếp thu và bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp mà Ủy ban sửa đổi Hiến pháp trình, đóng góp nhiều ý kiến có chất lượng. Tinh thần chung là phải chân thành lắng nghe ý kiến của nhân dân, tiếp thu tối đa những ý kiến hợp lý; kiên trì những vấn đề có tính nguyên tắc, thuộc về bản chất của chế độ chính trị và Nhà nước ta, tiếp tục khẳng định Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nòng cốt là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,… Tiếp tục kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến pháp trước đây còn phù hợp; chỉ sửa đổi, bổ sung những vấn đề thực sự cần thiết, đã rõ, được thực tiễn kiểm nghiệm và có sự thống nhất cao. Ðối với những vấn đề mới hoặc còn nhiều ý kiến khác nhau, Trung ương cần xem xét, trao đổi thật kỹ để có phương án tiếp thu, giải trình phù hợp.
4- Sơ kết một năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Ðảng
Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Ðảng hiện nay” là một Nghị quyết rất quan trọng, được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân đặc biệt quan tâm và theo dõi, ngay từ khi Nghị quyết mới được ban hành, cũng như trong suốt quá trình triển khai thực hiện.
Sau hơn 1 năm thực hiện, chúng ta cần sơ kết để kịp thời rút kinh nghiệm và có những nhận định, đánh giá thống nhất, tạo sự đồng thuận cao, làm cơ sở cho việc tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt hơn nữa Nghị quyết này. Trên cơ sở Báo cáo của Bộ Chính trị và bằng thực tiễn của địa phương, đơn vị, đề nghị các đồng chí thảo luận một cách thẳng thắn và sâu sắc vấn đề này.
Với tinh thần nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện và ý thức trách nhiệm, phải chăng chúng ta có thể nhận định: Trong hơn một năm qua, dù thời gian còn ngắn, nhiều việc mới triển khai hoặc chưa đạt kết quả như mong muốn, chưa đáp ứng được kỳ vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhưng với quyết tâm cao, tinh thần cầu thị, các cấp ủy và tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở đã triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 một cách nghiêm túc với một khối lượng công việc lớn, phức tạp, và đã đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng. Thể hiện trên một số mặt chủ yếu sau đây:
Một là, các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên đã nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về tầm quan trọng của công tác xây dựng Ðảng trong tình hình mới; thấy rõ tính cấp bách và sự cần thiết phải tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn đảng, làm cho Ðảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh. Từ đó, xác định rõ hơn trách nhiệm của mình đối với vận mệnh của Ðảng, của dân tộc, đề cao ý thức tự giác trong việc thực hiện Nghị quyết. Quá trình chuẩn bị và tiến hành kiểm điểm, tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 thực sự đã trở thành một đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Ðảng.
Hai là, thông qua việc chuẩn bị báo cáo kiểm điểm, báo cáo giải trình của tập thể, cá nhân một cách nghiêm túc, được bổ sung, hoàn thiện nhiều lần; việc tiếp thu ý kiến đóng góp của các tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên; việc tiến hành kiểm điểm, tự phê bình và phê bình thẳng thắn, kỹ lưỡng, đã giúp các cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ hơn những ưu điểm để phát huy; những hạn chế, khuyết điểm để kịp thời sửa chữa, khắc phục. Ðây là một dịp tốt để mỗi tổ chức và cán bộ, đảng viên tự nhìn nhận, soi xét lại mình, qua đó tự điều chỉnh suy nghĩ, hành động của bản thân và có những giải pháp cụ thể để sửa chữa, khắc phục khuyết điểm. Nó có tác dụng cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe và ngăn chặn những tiêu cực, sai phạm.
Ba là, hầu hết các cấp ủy, tổ chức đảng và nhiều cán bộ, đảng viên đã đề ra chương trình hành động và các biện pháp thiết thực để sửa chữa, khắc phục khuyết điểm, và trên thực tế đang có nhiều việc làm cụ thể. Ví dụ như: Trung ương đang triển khai việc xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ cấp chiến lược; mở lớp đào tạo bồi dưỡng cán bộ nguồn; ban hành Quy định về việc nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; quy định việc lấy phiếu tín nhiệm đối với một số chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý… Nhiều cấp ủy đã quy định cụ thể về việc sử dụng xe công, cải tiến tổ chức các hội nghị, chấn chỉnh tác phong công tác, lề lối làm việc, quy định về việc cán bộ lãnh đạo đi công tác nước ngoài; rà soát, điều chỉnh, thu hồi các dự án đã được cấp phép nhưng chậm triển khai hoặc chủ đầu tư không có khả năng thực hiện; sắp xếp lại tổ chức bộ máy và bố trí lại một số cán bộ; tăng cường việc thanh tra, kiểm tra và kết luận để điều chỉnh hoặc xem xét, xử lý kỷ luật đối với những người có dư luận liên quan đến tham nhũng, tiêu cực; tập trung xem xét, giải quyết các vụ khiếu kiện kéo dài và xem xét giải quyết dứt điểm các vụ án tồn đọng hoặc được dư luận đặc biệt quan tâm v.v…
Bốn là, các cấp ủy, tổ chức đảng có thêm kinh nghiệm trong việc chỉ đạo thực hiện công tác xây dựng Ðảng nói chung, kiểm điểm, tự phê bình và phê bình nói riêng. Có thể nói, với sự chỉ đạo chặt chẽ, cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm của Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong quá trình thực hiện Nghị quyết với quy trình tiến hành kiểm điểm từ trên xuống dưới, nêu cao vai trò tiền phong gương mẫu của cấp trên và của người đứng đầu; việc tổ chức lấy ý kiến đóng góp của tập thể và cá nhân trước khi kiểm điểm; việc gợi ý kiểm điểm đối với những nơi có vấn đề nổi cộm; việc thông báo kết quả và tiếp thu ý kiến đóng góp của các tổ chức và cá nhân sau kiểm điểm… là những cách làm mới, có tác dụng tích cực trên nhiều mặt.
Năm là, trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đã góp phần thúc đẩy các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm 2012, hoàn thành cơ bản các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững trật tự an toàn xã hội; chủ động hội nhập, nâng cao uy tín, vị thế quốc tế của đất nước. Không vì tập trung thực hiện nghị quyết mà sao nhãng công việc thường xuyên, ngược lại, việc chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, giải quyết những vấn đề bức xúc, nổi cộm càng được chú trọng và đem lại những kết quả rất đáng ghi nhận.
5- Về xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược
Thực hiện Nghị quyết Ðại hội XI của Ðảng và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Ðảng hiện nay”, thời gian qua, Bộ Chính trị đã sớm chỉ đạo triển khai việc xây dựng Ðề án quy hoạch cán bộ cấp chiến lược. Sau khi được Hội nghị Trung ương 6 khóa XI thông qua Ðề án, Bộ Chính trị đã khẩn trương chuẩn bị để trình Hội nghị Trung ương lần này cho ý kiến về dự kiến quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Ðảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016 – 2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo. Với tinh thần trách nhiệm cao, các đồng chí Trung ương đã tích cực tham gia phát hiện, giới thiệu nguồn quy hoạch. Tổng hợp kết quả phát hiện, giới thiệu, bước đầu cho thấy nguồn cán bộ khá dồi dào về số lượng, có đủ 3 độ tuổi cho các chức danh, trong đó có khá nhiều cán bộ trẻ, cán bộ nữ. Bộ Chính trị đã xem xét, thảo luận và có ý kiến sơ bộ về chức danh nhân sự dự kiến đưa vào Quy hoạch nhiệm kỳ 2016 – 2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo.
Tại hội nghị này, Bộ Chính trị đề nghị Ban Chấp hành Trung ương cho ý kiến về nguyên tắc, tiêu chí, phương pháp lựa chọn nhân sự đưa vào quy hoạch; về số lượng cho mỗi chức danh; về cơ cấu độ tuổi, giới tính, thành phần xuất thân và phương án nhân sự cụ thể đưa vào quy hoạch, sau đó giao cho Bộ Chính trị căn cứ ý kiến của Trung ương cân nhắc, quyết định chính thức. Ðể bảo đảm tính khả thi, thực chất của quy hoạch và tính kế thừa, phát triển của đội ngũ cán bộ, việc lựa chọn nhân sự đưa vào quy hoạch phải theo đúng đối tượng, độ tuổi, số lượng và cơ cấu như Ðề án quy hoạch mà Hội nghị Trung ương 6 đã thông qua. Phân biệt công tác quy hoạch với công tác nhân sự: Công tác quy hoạch là việc chủ động chuẩn bị nguồn nhân sự từ xa cho công tác cán bộ, bao gồm cả khâu đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện để chuẩn bị bố trí, bổ nhiệm cán bộ trong tương lai; còn công tác nhân sự là việc lựa chọn người để bố trí, bổ nhiệm vào vị trí có nhu cầu theo tiêu chuẩn chức danh cán bộ. Do vậy, việc lựa chọn nhân sự vào quy hoạch cần có tiêu chí, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và sự liên thông giữa quy hoạch của cấp trên và cấp dưới; đồng thời phải làm nhiều lần, bổ sung, điều chỉnh dần, không nhất thiết phải đủ số lượng ngay từ đầu. Ðây là lần đầu tiên Trung ương tiến hành xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược, chắc là không tránh khỏi những mặt còn hạn chế, chúng ta sẽ vừa làm vừa rút kinh nghiệm.
6- Về ứng phó với biến đổi khí hậu; bảo vệ tài nguyên, môi trường
Ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc; đồng thời cũng là thách thức to lớn đối với nhân loại trong thế kỷ XXI. Việt Nam là quốc gia ven biển, dễ bị tổn thương trước những tác động của biến đổi khí hậu; tài nguyên có hạn trong khi nhu cầu khai thác, sử dụng tăng nhanh; môi trường chịu áp lực lớn từ quá trình phát triển kinh tế – xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Ðảng và Nhà nước ta đã luôn chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo công tác này, coi đây là một nhiệm vụ trọng yếu. Trong các văn kiện Ðại hội IX, X, XI và nhiều nghị quyết, chỉ thị của Ðảng gần đây đã có đề cập vấn đề này, nhưng chưa có một nghị quyết chuyên đề toàn diện, sâu sắc của Ban Chấp hành Trung ương cho cả 3 nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Nhiệm vụ đặt ra tại Hội nghị Trung ương lần này là phải bàn bạc thấu đáo để có những chủ trương, phương hướng đúng đắn, kịp thời chỉ đạo thực hiện có kết quả lĩnh vực này, nhằm quán triệt, cụ thể hóa quan điểm phát triển bền vững của Ðại hội XI, thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2020 cũng như lâu dài của đất nước. Muốn thế, chúng ta cần thảo luận, đánh giá thật khách quan, khoa học tình hình biến đổi khí hậu, tài nguyên, môi trường và công tác ứng phó với biến đổi khí hậu ở nước ta trong thời gian qua. Nhất là tình trạng nước biển dâng, ngập lụt, triều cường, xâm nhập mặn; phòng tránh, giảm nhẹ tác hại của thiên tai, bão lũ, hạn hán; quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên, khoáng sản, tìm kiếm, phát triển các nguồn mới thay thế; phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm, bảo vệ môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học. Ðồng thời, dự báo đúng xu thế diễn biến trong từng lĩnh vực, những thách thức và vấn đề lớn đặt ra cần phải nghiên cứu xử lý. Trên cơ sở đó đề ra quan điểm, mục tiêu và định hướng nhiệm vụ, giải pháp sát hợp, khả thi. Có quan điểm chỉ đạo chung cho cả ba lĩnh vực và cho mỗi lĩnh vực; mục tiêu tổng quát đến năm 2020, tầm nhìn 2050; mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể của kế hoạch 5 năm 2011 – 2015 và chiến lược 10 năm 2011 – 2020.
Trong quá trình này, phải nhìn nhận đầy đủ vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, cơ quan Nhà nước, cộng đồng các doanh nghiệp, của người dân và của toàn xã hội. Xem xét toàn diện các vấn đề song phải có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Xác định và giải quyết tốt mối quan hệ giữa thích nghi và ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, phòng chống, giảm thiểu tác hại của thiên tai; giữa quản lý, khai thác, sử dụng trước mắt với giữ gìn, bảo vệ tài nguyên, môi trường cho tương lai lâu dài. Việc xác định các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phải dựa trên tinh thần chủ động, quyết liệt, có chương trình, kế hoạch hành động sát hợp về khoa học – công nghệ cũng như kinh tế – xã hội, và được đặt trong tổng thể chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển cho từng thời kỳ. Phải có sự tính toán ngay từ đầu các điều kiện bảo đảm việc thực hiện, nhất là điều kiện về khoa học – công nghệ và các nguồn lực trong nước và quốc tế, bao gồm nhân lực và nguồn lực tài chính; kết hợp công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức với việc đề ra và thực hiện đồng bộ hệ thống các cơ chế, chính sách phù hợp và chế tài đủ mạnh.
Thưa các đồng chí,
Những nội dung trình Hội nghị Trung ương lần này đều là những vấn đề khó, phức tạp nhưng rất quan trọng đối với sự phát triển bền vững của đất nước, không chỉ trong nhiệm kỳ này mà cho cả các nhiệm kỳ tiếp theo. Mặc dù đã được Bộ Chính trị chỉ đạo nghiên cứu, chuẩn bị nghiêm túc, công phu, nhưng chắc không tránh khỏi những hạn chế, khiếm khuyết. Ðề nghị Trung ương và các đồng chí tham dự Hội nghị phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, tập trung nghiên cứu, thảo luận kỹ lưỡng, cho ý kiến để hoàn thiện các báo cáo, đề án và xem xét, quyết định vào cuối kỳ họp.
Với tinh thần đó, tôi xin tuyên bố khai mạc Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa XI. Chúc Hội nghị thành công tốt đẹp.
Xin trân trọng cảm ơn.
————-
(*) Ðầu đề là của Báo Nhân Dân.
Nhandan
Ý kiến ()