Phải có ý thức tự chủ về công nghệ
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp 4.0, công nghệ đã và đang khẳng định vai trò là động lực chủ chốt, thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội, là công cụ để đất nước bứt phá trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Do vậy, dân tộc Việt Nam cần phải có ý thức tự chủ về công nghệ để bảo đảm tính độc lập về chủ quyền số, bảo đảm an ninh số cho quốc gia.
Không ngừng nỗ lực trong nghiên cứu công nghệ
Mới đây, tại Diễn đàn quốc gia về phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam lần thứ VI, Tổng Bí thư Tô Lâm đánh giá, một trong những điểm yếu lớn của Việt Nam là năng lực nghiên cứu và phát triển (R&D), hiện vẫn còn phụ thuộc khá nhiều vào nguồn lực từ nước ngoài, hạn chế khả năng tự chủ công nghệ. Bên cạnh đó, khả năng thu hút nhân tài công nghệ cao cũng chưa đủ mạnh, dẫn đến việc thiếu hụt nguồn lực chất lượng, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp. Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung còn thấp, chỉ tham gia ở mức rất khiêm tốn trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Trong thực tế, sự đóng góp của khu vực FDI đối với việc nâng cao tiến bộ khoa học nội địa còn thấp; trên 80% doanh nghiệp FDI sử dụng công nghệ trung bình; 14% sử dụng công nghệ lạc hậu, khoảng 5% sử dụng công nghệ cao. “Sắp tới đây chúng ta phải thu hút FDI có chọn lọc tốt hơn. Đừng để Việt Nam trở thành cứ điểm “lắp ráp - gia công”, là bãi rác về công nghệ của thế giới, trong khi doanh nghiệp trong nước không học hỏi được gì”- Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh.
Ý thức được điều này từ sớm, nhiều năm qua, các tập đoàn công nghệ hàng đầu của Việt Nam như: Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội (Viettel), Tập đoàn FPT... đã không ngừng học hỏi, tìm tòi để tự nghiên cứu, chế tạo công nghệ cho riêng mình. Họ ý thức sâu sắc rằng, trong kỷ nguyên số, tự chủ về công nghệ cũng chính là bảo vệ tính độc lập về chủ quyền số.
Điển hình như câu chuyện các kỹ sư của Tổng công ty Công nghiệp Công nghệ cao Viettel (VHT) thuộc Tập đoàn Viettel đã chế tạo thành công hệ thống cảnh giới và bảo vệ vùng trời VQ, đánh dấu bước phát triển mới của công nghiệp quốc phòng, đồng thời tạo bước đột phá quan trọng trong quản lý, bảo vệ vùng trời quốc gia. Năm 2012, nhóm kỹ sư trẻ của VHT bắt tay vào chế tạo hệ thống VQ giai đoạn 1 (VQ1-M), công nghệ mà trước đó chưa một đơn vị nào thực hiện. Sau hai năm trời không ngừng tìm tòi, nghiên cứu, trải qua nhiều lần thử nghiệm thất bại, hệ thống cảnh giới và bảo vệ vùng trời quốc gia VQ1-M do chính những kỹ sư trẻ ấy nghiên cứu nghiệm thu thành công cấp Bộ Quốc phòng và được đưa vào phục vụ sẵn sàng chiến đấu cho Quân chủng Phòng không-Không quân. Ngày 8-1-2015, hệ thống cảnh giới và bảo vệ vùng trời quốc gia VQ1-M chính thức hoạt động. Sự kiện này đánh dấu lần đầu tiên Việt Nam có hệ thống công nghệ cao cảnh giới và bảo vệ vùng trời do chính doanh nghiệp trong nước làm chủ và sản xuất đưa vào trang bị phục vụ quân sự. Trước Việt Nam, không nhiều quốc gia có nền công nghệ và tiềm lực kinh tế đủ khả năng nghiên cứu chế tạo thành công sản phẩm có tính năng tương tự.

Trung tá Lê Trần Sự, Giám đốc Trung tâm Chỉ huy điều khiển thuộc Tổng công ty VHT, người tham gia nghiên cứu hệ thống, chia sẻ: “Việc làm chủ công nghệ từ thiết kế nguyên lý đến viết phần mềm điều khiển toàn bộ hoạt động của hệ thống chỉ huy điều khiển có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đầu tiên là về mặt kinh tế, kỹ thuật. Trước khi nghiên cứu VQ1-M, một đối tác nước ngoài đã “chào hàng” hệ thống tương tự tới Viettel với giá hàng trăm triệu USD. Viettel không mua lại công nghệ đó mà quyết tâm tự mình hoàn thành sản phẩm, bởi các loại vũ khí, trang bị phải nhập khẩu thì đều ẩn chứa sự phụ thuộc về bảo đảm kỹ thuật, nhất là khi gặp trục trặc. Đặc biệt, việc tự chế tạo ra sản phẩm sẽ bảo đảm an toàn về thông tin khi sử dụng”. Đến nay, hệ thống VQ vẫn được các kỹ sư của Viettel tiếp tục cải tiến để thêm nhiều tính năng hơn cho hệ thống.
Chú trọng việc xác lập quyền sở hữu trí tuệ
Anh hùng Lao động Hoàng Đức Thảo, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Khoa học và công nghệ Việt Nam là “Nhà khoa học nắm giữ số lượng Bằng sáng chế sở hữu trí tuệ nhiều nhất thế giới trong việc nghiên cứu, ứng dụng thực hành và thực chứng kết quả đồng bộ, với quá trình nghiên cứu, chế tạo, sáng tạo giải pháp, điều phối thi công và vận hành các sản phẩm phục vụ dân sinh, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai và ứng phó biến đổi khí hậu” do Hội đồng Liên minh Kỷ lục thế giới xác nhận vào năm 2020 và là “Tác giả có nhiều bằng độc quyền sáng chế và giải pháp hữu ích nhất Việt Nam” do Tổ chức Kỷ lục Việt Nam (VietKing) xác nhận năm 2020. Ông Thảo cho rằng, trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc các doanh nghiệp trong nước tự nghiên cứu và làm chủ được công nghệ sẽ nắm được quyền chủ động, không bị phụ thuộc vào nước ngoài. Nghiên cứu ra được công nghệ rồi, các doanh nghiệp cần chú trọng việc xác lập quyền sở hữu trí tuệ để bảo đảm sự cạnh tranh công bằng, đề phòng trường hợp khi có doanh nghiệp hay đơn vị khác sao chép công nghệ của mình còn có căn cứ pháp luật để khởi kiện đơn vị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

Bên cạnh đó, Việt Nam cần đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng công nghệ hiện đại, có dung lượng lớn, băng thông rộng, đồng bộ và phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế để tạo điều kiện thuận lợi cho việc kết nối toàn quốc và phát triển kinh tế số. Đặc biệt, Nhà nước cần có cơ chế, chính sách thu hút nhân tài công nghệ cao, xây dựng môi trường làm việc hấp dẫn, hỗ trợ nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo, từ đó nâng cao năng lực nội địa và tạo ra các doanh nghiệp công nghệ hàng đầu quốc tế. Đẩy mạnh phát triển hệ sinh thái công nghệ với sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, trường đại học, viện nghiên cứu và các tổ chức hỗ trợ; có các chương trình phổ cập công nghệ tới toàn dân như: Trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây (Cloud Computing), chuỗi khối (Blockchain)...

Ngoài ra, mỗi doanh nghiệp đều phải có ý thức tự chủ về công nghệ, phải tự đặt ra mục tiêu phát triển cao, đầy khát vọng và không ngừng nâng cao chất lượng nhân lực cả về số lượng và chất lượng. Đồng thời, người dân cần đặt niềm tin và ưu tiên sử dụng các sản phẩm được tạo ra từ công nghệ của doanh nghiệp trong nước thay vì “sính ngoại” để tiếp động lực cho các doanh nghiệp nội địa vươn mình. Điều quan trọng nữa là Việt Nam cần tăng cường hợp tác với các tổ chức, doanh nghiệp công nghệ hàng đầu thế giới, thu hút thêm các tổ chức nghiên cứu và sản xuất công nghệ số vào Việt Nam như lời Tổng Bí thư Tô Lâm nói: “Chúng ta phải biết cách “đứng trên vai của những người khổng lồ”.

Ý kiến ()