Nông sản Việt Nam tận dụng cơ hội từ EVFTA
Chế biến dứa xuất khẩu tại Công ty CP Thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao (Ninh Bình).
Cơ hội cho nhiều mặt hàng
Với EVFTA, thủy sản là một trong những ngành hàng được kỳ vọng sẽ tạo ra sự bứt phá với những ưu đãi thuế quan mới. Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, ngay khi Hiệp định có hiệu lực, 50% số dòng thuế đối với sản phẩm thủy sản (khoảng 840 dòng thuế) sẽ về mức 0%. Đây là những dòng thuế hiện đang có thuế suất cơ sở từ 0% đến 22%, trong đó phần lớn ở mức cao từ 6% đến 22%. Còn 50% số dòng thuế còn lại hiện đang có thuế suất cơ sở từ 5,5% đến 26% sẽ về 0% sau từ ba đến bảy năm. Riêng cá ngừ đóng hộp và cá viên, EU dành cho Việt Nam hạn ngạch thuế quan lần lượt là 11.500 tấn và 500 tấn. Phó Chủ tịch Hội nghề cá, Chủ tịch Hiệp hội cá tra Dương Nghĩa Quốc cho biết: Việc Việt Nam và EU ký Hiệp định EVFTA mở ra cơ hội rất lớn cho ngành hàng thủy sản nước ta, nhất là đối với các mặt hàng xuất khẩu chính như cá tra và tôm. Riêng đối với tôm, thuế nhập khẩu giảm mạnh ngay từ năm đầu tiên Hiệp định có hiệu lực và sẽ về 0% trong những năm tiếp theo. Cụ thể, tôm sú đông lạnh được giảm thuế từ mức cơ bản 20% xuống 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực. Các sản phẩm tôm khác theo lộ trình 3 năm đến 5 năm, riêng tôm chế biến lộ trình giảm thuế bảy năm. Đối với sản phẩm cá tra lộ trình giảm thuế ba năm, riêng cá hun khói lộ trình bảy năm… Khi đó, ngoài lợi ích được giảm thuế thì các mặt hàng thủy sản Việt Nam còn gia tăng được sức cạnh tranh đối với các quốc gia xuất khẩu khác chưa tham gia vào các hiệp định thương mại tự do. Đây cũng là một điểm cộng giúp cho hàng thủy sản Việt Nam thuận lợi hơn trong việc chinh phục thị trường châu Âu. Nhấn mạnh vào mặt hàng cá tra, ông Dương Nghĩa Quốc cũng cho rằng: Việc ký Hiệp định EVFTA sẽ góp phần quan trọng cải thiện hình ảnh cho cá tra nước ta đối với người tiêu dùng châu Âu khiến họ yên tâm về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm đối với mặt hàng này.
Ngoài thủy sản, các nước EU cũng cắt giảm thuế các mặt hàng gạo về 0% sau từ ba đến bảy năm; rau quả có 520 trong tổng số 556 dòng thuế về 0%, rau quả chế biến cũng có 85,6% dòng thuế về 0%; hạt điều hưởng thuế 0%; cà-phê, hạt tiêu 93% dòng thuế về 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực… Không chỉ giảm thuế đối với các mặt hàng cụ thể, mà EU còn có cơ chế bảo hộ 39 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam như vải Thanh Hà, vải Lục Ngạn, chè Tân Cương, nho Ninh Thuận, xoài Hòa Lộc, quýt Bắc Cạn, gạo Hải Hậu… Đây là một trong những điều kiện thuận lợi để nông sản Việt khẳng định được thương hiệu trên thị trường thế giới.
Nhận diện thách thức để vượt qua
Những lợi thế mà Hiệp định EVFTA mang lại cho ngành nông nghiệp Việt Nam là rất lớn, nhưng cơ hội luôn đi kèm thách thức bởi EU vốn luôn là thị trường khó tính. Trước hết, đó là các rào cản kỹ thuật trong thương mại và việc áp dụng các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch, chưa kể đến các yêu cầu cụ thể của khách hàng đối với từng mặt hàng riêng lẻ. Đơn cử như sản phẩm hạt điều có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn với thị trường trọng điểm là EU, nhất là Đức và Hà Lan. Tuy nhiên, theo Tổng Giám đốc Liên hiệp Hợp tác xã điều Bình Phước Vũ Đức Bộ cùng với lợi thế khi ký kết EVFTA thì mặt hàng điều chắc chắn cũng sẽ phải đối mặt với những rào cản kỹ thuật mới như vệ sinh an toàn thực phẩm, nhãn dán, xuất xứ…; đồng thời các quốc gia nhập khẩu chắc chắn sẽ gắt gao hơn khi kiểm tra các lô hàng của nước ta. Vì vậy, dù được hưởng lợi từ thuế quan thì sản phẩm điều cũng phải hoàn thiện rất nhiều về chất lượng để có thể vượt qua các rào cản này.
Không chỉ vậy, khi tham gia Hiệp định EVFTA thì nguy cơ về các biện pháp phòng vệ thương mại cũng tăng đáng kể. Bởi lẽ, thông thường khi rào cản thuế quan không còn là công cụ hữu hiệu để bảo vệ thì thị trường nhập khẩu có xu hướng sử dụng nhiều hơn các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp hay tự vệ để bảo vệ ngành sản xuất nội địa, mà EU cũng là một trong những thị trường có truyền thống sử dụng các công cụ này.
Trước những thách thức trên, đòi hỏi các ngành hàng nông nghiệp nước ta phải sớm đổi mới toàn diện trên tất cả các khâu, từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ, trong đó tập trung đổi mới công nghệ để nhanh chóng tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Điều này cần sự nỗ lực của các doanh nghiệp trong việc tiếp cận nhanh chóng và hiệu quả với những quy định của EVFTA để từ đó hoàn thiện các khâu hoạt động của mình; sản xuất, chế biến ra những sản phẩm đáp ứng đầy đủ yêu cầu từ phía đối tác. Đối với những người nông dân, lực lượng trực tiếp sản xuất ra sản phẩm cần được tập huấn đầy đủ hơn về quy trình sản xuất bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, về nhật ký sản xuất, truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Đây là những điểm yếu hiện nay của nông dân nước ta vốn quen với phương thức sản xuất truyền thống. Về phía các cơ quan chức năng, ngoài việc tuyên truyền, phổ biến các vấn đề có liên quan đến Hiệp định, cần tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp hoàn thiện các thủ tục đăng ký tiêu chuẩn, chất lượng, xuất xứ…, giúp hàng nông sản Việt Nam tận dụng được hết các cơ hội từ EVFTA.
Theo Nhandan
Ý kiến ()