Nội dung của Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Ðông
Tại Hội nghị cấp cao ASEAN 18 tổ chức tại Gia-các-ta, In-đô-nê-xi-a đầu tháng 5 vừa qua, các nhà lãnh đạo cấp cao ASEAN đã quyết định tăng cường nỗ lực thực hiện toàn diện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông để bắt đầu xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông vào năm 2012 nhân kỷ niệm mười năm ký kết Tuyên bố.Để bạn đọc hiểu rõ hơn Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông ký giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2002, chúng tôi xin giới thiệu bài viết về quá trình thương lượng và nội dung cơ bản của Tuyên bố.1. Quá trình thương lượng Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông Biển Đông là biển nửa kín ở Thái Bình Dương. Có chín nước tiếp giáp Biển Đông là Việt Nam, Trung Quốc, Cam-pu-chia, Thái-lan, Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po, In-đô-nê-xi-a, Bru-nây và Phi-li-pin. Biển Đông gắn với các lợi ích thiết thân của hàng trăm triệu người thuộc chín nước liên quan. Đồng thời, nhiều nước khác cũng có lợi ích ở các mức độ khác nhau trong việc sử dụng vùng biển...
Tại Hội nghị cấp cao ASEAN 18 tổ chức tại Gia-các-ta, In-đô-nê-xi-a đầu tháng 5 vừa qua, các nhà lãnh đạo cấp cao ASEAN đã quyết định tăng cường nỗ lực thực hiện toàn diện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông để bắt đầu xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông vào năm 2012 nhân kỷ niệm mười năm ký kết Tuyên bố.
Để bạn đọc hiểu rõ hơn Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông ký giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2002, chúng tôi xin giới thiệu bài viết về quá trình thương lượng và nội dung cơ bản của Tuyên bố.
1. Quá trình thương lượng Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông
Biển Đông là biển nửa kín ở Thái Bình Dương. Có chín nước tiếp giáp Biển Đông là Việt Nam, Trung Quốc, Cam-pu-chia, Thái-lan, Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po, In-đô-nê-xi-a, Bru-nây và Phi-li-pin. Biển Đông gắn với các lợi ích thiết thân của hàng trăm triệu người thuộc chín nước liên quan. Đồng thời, nhiều nước khác cũng có lợi ích ở các mức độ khác nhau trong việc sử dụng vùng biển này theo các quy định của luật biển quốc tế. Tuy nhiên, từ những năm 70 của thế kỷ 20, tranh chấp chủ quyền biển, đảo ở Biển Đông trở nên căng thẳng hơn. Đặc biệt, cuối những năm 80, tình hình liên quan quần đảo Trường Sa xảy ra những sự kiện đột biến, phức tạp, đe dọa hòa bình và ổn định của khu vực.
Trước tình hình đó, ngày 22-7-1992, ASEAN thông qua Tuyên bố về Biển Đông kêu gọi các bên liên quan giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, kiềm chế không làm căng thẳng tình hình, khuyến nghị các bên liên quan áp dụng các nguyên tắc của Hiệp ước thân thiện và hợp tác tại Đông-Nam Á (TAC) để làm cơ sở xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Diễn biến sau đó ở Biển Đông tiếp tục xấu đi, dẫn đến việc Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 29 (Gia-các-ta, ngày 20 và 21-7-1996) ra Tuyên bố chung bày tỏ quan ngại trước những diễn biến trên Biển Đông, chỉ rõ những diễn biến gần đây khẳng định sự cần thiết có một Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông làm nền tảng cho sự ổn định trong khu vực và thúc đẩy sự hiểu biết giữa các quốc gia tranh chấp.
Từ đó, ASEAN đẩy mạnh nỗ lực để xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6 (Hà Nội, ngày 15 và 16-12-1998), lãnh đạo các thành viên ASEAN nhất trí xây dựng một Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông. Tại cuộc họp tháng 5-1999, SOM ASEAN đã bắt đầu thảo luận các dự thảo do Phi-li-pin và Việt Nam chuẩn bị. Trên cơ sở thương lượng, các nước ASEAN đã thống nhất Bản dự thảo chung của ASEAN và bản dự thảo này đã được trình lên Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN và giới thiệu tại cuộc họp của ARF vào tháng 7-1999. Tháng 9-1999, ASEAN tiếp tục thảo luận dự thảo lần hai. Một trong những vấn đề được các chuyên gia ASEAN thảo luận sâu là phạm vi áp dụng của COC. Tháng 11-1999, ASEAN tiếp tục thảo luận và cuối cùng thống nhất dự thảo chung để đàm phán với Trung Quốc.
Tháng 3-2000, lần đầu ASEAN và Trung Quốc tiến hành thương lượng về dự thảo COC qua cuộc hội đàm không chính thức tại Hủa Hin (Thái-lan). Cuộc họp SOM ASEAN – Trung Quốc lần thứ sáu, ngày 25 và 26-4-2000 tại Cu-ching (Ma-lai-xi-a), ASEAN và Trung Quốc thống nhất lập Nhóm nghiên cứu liên hợp nhằm soạn thảo COC. Phiên họp đầu tiên của Nhóm nghiên cứu (tổ chức tại Cu-a-la Lăm-pơ tháng 5-2000) cho thấy, hai bên có ý kiến khác nhau về khu vực địa lý mà COC có hiệu lực và điều khoản về không chiếm đóng thêm. Sau đó, một mặt ASEAN tiếp tục có các cuộc họp nội bộ; mặt khác ASEAN và Trung Quốc có các cuộc thương thảo để tháo gỡ các bế tắc. ASEAN và Trung Quốc thương lượng về văn kiện trong ba năm 2000 – 2002 và ngày 4-11-2002 tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ tám tại Phnôm Pênh (Cam-pu-chia) cùng nhau ký Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).
2. Nội dung cơ bản của Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông
Các cam kết mà ASEAN và Trung Quốc đã nhất trí trong DOC có thể phân thành hai nhóm chính, bao gồm các cam kết về các nguyên tắc ràng buộc hành vi ứng xử của các bên ở Biển Đông và các cam kết về việc cùng tiến hành một số biện pháp xây dựng lòng tin cũng như một số hoạt động hợp tác trong một số lĩnh vực ít nhạy cảm.
a. Các cam kết về các nguyên tắc ứng xử là trọng tâm chính của DOC năm 2002
Một là, các bên khẳng định cam kết đối với mục tiêu và các nguyên tắc của Hiến chương LHQ, Công ước Luật Biển năm 1982 của LHQ, Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông – Nam Á, năm nguyên tắc tồn tại hòa bình và các nguyên tắc phổ cập khác của pháp luật quốc tế.
Hai là, các bên cam kết giải quyết mọi tranh chấp lãnh thổ và tranh chấp về quyền tài phán bằng các biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, thông qua trao đổi ý kiến và thương lượng hữu nghị giữa các quốc gia có chủ quyền liên quan phù hợp với các nguyên tắc phổ cập của pháp luật quốc tế, trong đó có Công ước Luật Biển năm 1982. Mặc dù, DOC không nói rõ các biện pháp hòa bình ở đây là gì, nhưng căn cứ pháp luật quốc tế cũng như quy định tại Điều 33 của Hiến chương LHQ thì các biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp, gồm thương lượng, môi giới, trung gian, hòa giải, trọng tài và tòa án quốc tế. Điều này có nghĩa là các bên có rất nhiều sự lựa chọn và các bên hoàn toàn tự do trong việc lựa chọn các biện pháp hòa bình này. Điều mấu chốt là các bên không được đe dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp liên quan ở Biển Đông.
Ba là, các bên khẳng định tôn trọng tự do hàng hải và tự do bay ở Biển Đông như đã được quy định bởi các nguyên tắc phổ cập của pháp luật quốc tế, trong đó có Công ước Luật Biển năm 1982. Điều này có nghĩa là tàu, thuyền của mọi quốc gia (bất kể ở trong khu vực hay ngoài khu vực) đều được quyền tự do hàng hải trong vùng đặc quyền kinh tế của các nước ven Biển Đông cũng như vùng biển quốc tế ngoài phạm vi 200 hải lý; tàu bay của mọi quốc gia được quyền tự do bay trên vùng trời trên vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven Biển Đông và ở vùng trời trên các vùng biển quốc tế.
Bốn là, các bên cam kết kiềm chế không tiến hành các hoạt động có thể làm phức tạp thêm hoặc gia tăng tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định. Tuyên bố DOC không liệt kê cụ thể những hành động cụ thể, nhưng chúng ta có thể xác định được: đó là các hoạt động có thể làm phức tạp thêm các tranh chấp hiện hành; đó là các hoạt động có thể gia tăng các tranh chấp hiện hành; và loại hành động thứ ba là các hành động có thể ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định ở trong khu vực. Tuyên bố đặc biệt nhấn mạnh việc kiềm chế không đưa người lên các đảo, bãi hiện nay không có người ở.
b. Nhóm các cam kết thứ hai liên quan việc tìm kiếm phương cách xây dựng lòng tin và các hoạt động hợp tác trong một số lĩnh vực ít nhạy cảm.
ASEAN và Trung Quốc đồng ý căn cứ vào các nguyên tắc Hiến chương LHQ, Công ước Luật Biển năm 1982 của LHQ, Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông – Nam Á, năm nguyên tắc tồn tại hòa bình và các nguyên tắc phổ cập khác của pháp luật quốc tế, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau để tìm kiếm các phương cách xây dựng lòng tin. Từ cam kết mang tính nguyên tắc đó, ASEAN và Trung Quốc nhất trí là trong khi tìm kiếm giải pháp hòa bình cho các tranh chấp, các bên cam kết tăng cường nỗ lực để xây dựng lòng tin như tiến hành đối thoại quốc phòng; đối xử nhân đạo với người bị nạn trên biển; thông báo cho các bên liên quan về các cuộc diễn tập quân sự, trao đổi thông tin liên quan. Việc thông báo và trao đổi như vậy được các bên liên quan tiến hành trên cơ sở tự nguyện.
Đồng thời trong khi tìm kiếm giải pháp toàn diện và lâu dài cho vấn đề tranh chấp ở Biển Đông, các bên có thể tìm kiếm và tiến hành các hoạt động hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, an toàn và an ninh hàng hải, tìm kiếm, cứu nạn trên biển, đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia (buôn bán ma túy, cướp biển, cướp có vũ trang trên biển và buôn lậu vũ khí). Các bên sẽ thỏa thuận phương thức, địa điểm và phạm vi của các hoạt động hợp tác này trước khi triển khai.
c. ASEAN và Trung Quốc long trọng cam kết tôn trọng các quy định của DOC và hành động phù hợp với các nội dung của DOC.
ASEAN và Trung Quốc đồng ý sẽ cùng nhau hợp tác trên cơ sở đồng thuận để đạt mục tiêu cuối cùng cao hơn là thông qua một Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Các bên đều nhất trí rằng việc thông qua Bộ Quy tắc đó sẽ tăng cường hơn nữa hòa bình và ổn định của khu vực. Đồng thời ASEAN và Trung Quốc cũng khuyến khích các quốc gia khác tôn trọng các nguyên tắc trong DOC.
3. Thực hiện Tuyên bố DOC năm 2002 giữa ASEAN và Trung Quốc
a. Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông năm 2002 giữa ASEAN và Trung Quốc là kết quả của nỗ lực chung của cả ASEAN và Trung Quốc. Đó là văn kiện chung đầu tiên giữa ASEAN và Trung Quốc trực tiếp liên quan vấn đề Biển Đông. Việc ký kết văn kiện này là một bước tiến quan trọng trong việc đối thoại giữa Trung Quốc và ASEAN. Việc tuân thủ nghiêm chỉnh các cam kết trong DOC giúp tránh được các xung đột tại Biển Đông như đã từng xảy ra và giữ ổn định cho khu vực và có lợi cho cả toàn khu vực.
Tuyên bố DOC năm 2002 có hiệu lực ngay từ khi được đại diện Chính phủ các thành viên ASEAN và Chính phủ Trung Quốc ký. Để thúc đẩy thực hiện đầy đủ các quy định trong DOC, ASEAN và Trung Quốc đã lập hai cơ chế là Hội nghị quan chức cấp cao ASEAN – Trung Quốc về DOC (SOM ASEAN – Trung Quốc) và Nhóm Công tác chung ASEAN – Trung Quốc về thực hiện DOC (ACJWG). Theo Quy chế làm việc thì ACJWG được giao nhiệm vụ đề xuất lên SOM ASEAN – Trung Quốc các khuyến nghị liên quan trong bốn lĩnh vực. Nhiệm vụ hàng đầu của Nhóm công tác chung là xây dựng Bản Quy tắc hướng dẫn thực hiện DOC. Từ năm 2005 đến nay, Nhóm công tác chung đã có sáu cuộc họp, trong đó các cuộc họp gần đây là Cuộc họp thứ tư tại Hà Nội (tháng 4-2010), Cuộc họp thứ năm tại Côn Minh, Trung Quốc (tháng 12-2010) và cuộc họp thứ sáu tại In-đô-nê-xi-a (tháng 4-2011). Nhóm Công tác đã tập trung thương thảo về các quy tắc hướng dẫn và đã đạt được những tiến triển tích cực, cụ thể là đã nhất trí được phần lớn các quy tắc hướng dẫn. Hiện nay chuyên gia ASEAN đang tăng cường các nỗ lực thương lượng với các chuyên gia Trung Quốc để sớm hoàn thành Bản Quy tắc hướng dẫn. Sau khi có các quy tắc hướng dẫn, các bên sẽ xem xét tìm kiếm và triển khai những hoạt động hợp tác trong một số lĩnh vực ít nhạy cảm vì lợi ích chung của khu vực.
b. Lãnh đạo cấp cao của ASEAN và Trung Quốc đánh giá cao ý nghĩa của DOC và tại các Hội nghị cấp cao ASEAN – Trung Quốc đều 'khẳng định quyết tâm thực hiện đầy đủ DOC theo hướng cuối cùng thông qua COC'. Chính vì vậy, Tuyên bố chung của các nguyên thủ và Thủ tướng các nước ASEAN và Trung Quốc về đối tác chiến lược ASEAN-Trung Quốc (Ba-li, In-đô-nê-xi-a ngày 8-10-2003) đã coi việc thực hiện DOC là một biện pháp trong hợp tác an ninh giữa ASEAN và Trung Quốc.
Đặc biệt, điểm 13 trong Tuyên bố của Chủ tịch Hội nghị cấp cao ASEAN tại Hà Nội (2010) đã coi DOC năm 2002 là một trong số các công cụ và cơ chế quan trọng hiện nay của ASEAN, đặt DOC bên cạnh các văn kiện pháp lý như Hiệp ước Thân thiện và hợp tác ở Đông – Nam Á (TAC), Hiệp ước về khu vực phi vũ khí hạt nhân ở Đông – Nam Á (SEANWFZ), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về tội phạm xuyên quốc gia (AMMTC) và Công ước ASEAN về chống khủng bố.
Cũng tại Hội nghị cấp cao ASEAN – Trung Quốc lần thứ 13 (tổ chức tại Hà Nội ngày 29-10-2010), các nhà lãnh đạo cấp cao ASEAN và Trung Quốc khẳng định lại cam kết triển khai đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông và hướng tới thông qua Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông trên cơ sở đồng thuận, qua đó góp phần duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác trong khu vực; hoan nghênh những tiến triển đạt được trong lĩnh vực này, bao gồm việc tổ chức cuộc họp lần thứ tư của Nhóm Công tác chung ASEAN – Trung Quốc về triển khai DOC, và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tham vấn và phối hợp chặt chẽ giữa các quốc gia thành viên ASEAN và Trung Quốc trong triển khai DOC, gồm việc nối lại Cuộc họp quan chức cấp cao ASEAN – Trung Quốc về DOC.
Điều cần thiết phải nhấn mạnh là chính giới và dư luận quốc tế cũng đánh giá cao vai trò của DOC và sự cần thiết thực hiện đầy đủ các cam kết trong văn kiện này. Điểm 13 của Tuyên bố của Chủ tịch ARF 17 tại Hà Nội đã nêu rõ 'Các bộ trưởng khẳng định tầm quan trọng của DOC như là một văn kiện lịch sử giữa ASEAN và Trung Quốc, thể hiện cam kết tập thể nhằm đảm bảo các giải pháp hòa bình cho các tranh chấp trong khu vực. Các bộ trưởng nhấn mạnh hiệu quả của DOC trong việc xây dựng sự tin cậy lẫn nhau và sẽ giúp cho việc duy trì hòa bình và ổn định ở khu vực. Các bộ trưởng khuyến khích các nỗ lực theo hướng thực hiện đầy đủ DOC và cuối cùng tiến tới COC'.
4. Việt Nam và Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông
Xuất phát từ chính sách đối ngoại hòa bình, Việt Nam đã nhiệt liệt ủng hộ Tuyên bố của ASEAN về Biển Đông mặc dù lúc đó chúng ta chưa phải là thành viên của ASEAN. Cũng chính từ chính sách đó, sau khi gia nhập đại gia đình ASEAN, chúng ta đã tích cực thúc đẩy việc xây dựng Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông. Cùng với Phi-li-pin và các nước ASEAN khác, Việt Nam đã đóng góp lớn vào việc soạn thảo và thương lượng nội dung các quy định trong DOC. Cũng như Phi-li-pin, mong muốn ban đầu của chúng ta là ASEAN và Trung Quốc ký một văn kiện có tính pháp lý cao hơn trong vấn đề Biển Đông và chúng ta đã nỗ lực theo hướng đó. Tuy nhiên, quá trình thương lượng cho thấy một số nước, vì các lý do khác nhau, chưa sẵn sàng cho việc thông qua COC. Trước tình hình đó, Nhà nước Việt Nam đã thể hiện tinh thần trách nhiệm, có bước đi linh hoạt, mềm dẻo cần thiết, cụ thể là đồng ý bước đầu ký văn kiện ở hình thức Tuyên bố như văn bản hiện hành. Sau khi Tuyên bố DOC được ký, chúng ta tiếp tục các nỗ lực tích cực, tuân thủ các cam kết trong DOC, đồng thời yêu cầu các nước liên quan thực hiện đúng các cam kết trong văn kiện này.
Chúng ta cũng hiểu rằng còn một số biện pháp dự tính trong DOC chưa được triển khai như tìm kiếm các biện pháp xây dựng lòng tin hoặc tìm kiếm các biện pháp hợp tác trong những lĩnh vực ít nhạy cảm. Nhưng việc đó không hề giảm ý nghĩa của DOC trong thực tế. Tuyên bố DOC thực sự có đóng góp quan trọng cho việc duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông; thực hiện đầy đủ các quy định trong DOC chỉ đem lại điều lợi cho cả ASEAN và Trung Quốc, đồng thời đáp ứng mong mỏi và nguyện vọng chung của khu vực và thế giới về một Biển Đông hòa bình, hữu nghị và hợp tác. Với tinh thần đó, chúng ta đã và đang tiếp tục cùng các nước ASEAN tuân thủ thực tiễn hiện hành của ASEAN là tham khảo nội bộ chặt chẽ giữa các nước thành viên để thực hiện đầy đủ DOC; từ đó, ASEAN và Trung Quốc trao đổi để sớm hoàn thành Bản Quy tắc hướng dẫn với Trung Quốc.
Mặt khác, chúng ta cũng đã có các bước đi thích hợp để các nước hiểu rõ lập trường của nước ta về vấn đề Biển Đông. Chúng ta kiên trì giải quyết mọi tranh chấp liên quan Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình căn cứ pháp luật quốc tế, trong đó có Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982, thúc đẩy thực hiện đầy đủ DOC, tiến tới xây dựng COC vì mục đích góp phần duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông. Chúng ta cũng tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực về biển với các nước láng giềng liên quan. Các nỗ lực và việc làm của nước ta được chính giới và dư luận quốc tế, khu vực đánh giá tích cực.
Ngày 9-4-2010, tại buổi họp báo về kết quả Hội nghị cấp cao ASEAN 16, trả lời câu hỏi liên quan đến chủ đề Biển Đông, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: 'Duy trì hòa bình, ổn định, an ninh và an toàn trên Biển Đông là lợi ích chung và là mối quan tâm lớn của các nước ASEAN, trong khu vực. Các nước liên quan đã xây dựng nhiều thỏa thuận và cơ chế hợp tác nhằm đảm bảo hòa bình, ổn định và cùng hợp tác ở khu vực, trong đó có Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Đây là văn kiện được ký kết giữa ASEAN và Trung Quốc, nhằm thúc đẩy xây dựng lòng tin, hợp tác' và nhấn mạnh: 'Với thiện chí của các bên và vì lợi ích chung của khu vực, các bên liên quan sẽ tiếp tục tuân thủ và thực hiện tốt DOC, cũng như Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982, góp phần thiết thực duy trì hòa bình, ổn định, an ninh ở Biển Đông'.
Chúng ta tin chắc rằng, cách tiếp cận hợp tình, hợp lý và các nỗ lực tích cực của Việt Nam trong việc thúc đẩy thực hiện toàn diện DOC, tiến tới COC sẽ góp phần nâng cao hơn nữa vai trò và ý nghĩa của DOC, đóng góp xứng đáng vào nỗ lực chung của ASEAN và cộng đồng quốc tế vì một Biển Đông hòa bình, hữu nghị và hợp tác.
Theo Nhandan
Ý kiến ()