Những ý kiến tâm huyết, trí tuệ hướng về Đại hội XII của Đảng
Việc thảo luận và lấy ý kiến đóng góp vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội XII của Đảng được các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, MTTQ Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội, đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân tiến hành nghiêm túc, trách nhiệm, tâm huyết. Đây thật sự là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, ý nghĩa thiết thực và đem lại kết quả rất quan trọng.
Đảng phát huy dân chủ, trách nhiệm, cầu thị
Thực hiện Chỉ thị số 36 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XII của Đảng; hướng dẫn của các ban đảng Trung ương (T.Ư), đại hội đảng bộ từ cấp cơ sở đến các đảng bộ trực thuộc T.Ư và kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã nghiêm túc tham gia góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện của T.Ư gồm: Dự thảo Báo cáo Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khóa XI trình Đại hội XII (gọi tắt là Báo cáo Chính trị); Dự thảo Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH 5 năm 2011-2015 và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2016-2020 (gọi tắt là Báo cáo đánh giá phát triển kinh tế – xã hội). Từ ngày 15-9-2015, thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cơ quan thông tấn, báo chí đã công bố toàn văn hai dự thảo văn kiện trình Đại hội XII của Đảng. Tiếp đó, Ban Tuyên giáo T.Ư chỉ đạo các báo: Nhân Dân, Quân đội nhân dân, Công an nhân dân đăng giới thiệu “Những nội dung cốt lõi trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII”.
Sau 45 ngày công bố hai dự thảo văn kiện trình Đại hội XII để lấy ý kiến các tầng lớp nhân dân, các cơ quan của Đảng đã nhận được hàng chục nghìn ý kiến đóng góp của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Tại kỳ họp thứ 10, Quốc khội khóa XIII có hơn 490 ý kiến góp ý của các đại biểu. Qua tập hợp của Ban Tuyên giáo T.Ư, các cơ quan thông tấn, báo chí đã đăng tải, phát sóng hơn 730 bài báo, ý kiến; 267 thư và bản tổng hợp ý kiến của nhiều đồng chí nguyên là lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước, chuyên gia, nhà quản lý, nhân sĩ, trí thức và các tầng lớp nhân dân. Đảng đoàn UB T.Ư MTTQ Việt Nam nhận được 65.785 ý kiến. Kiều bào ta ở nước ngoài cũng gửi hàng nghìn ý kiến tâm huyết để xây dựng đất nước, xây dựng Đảng. Theo thống kê, đánh giá, số lượng ý kiến đóng góp xây dựng dự thảo Báo cáo Chính trị nhiều hơn số ý kiến đóng góp xây dựng Báo cáo phát triển KT-XH; số ý kiến đề cập các vấn đề chính trị, kinh tế, giáo dục, văn hóa, y tế, quốc phòng, an ninh nhiều hơn các vấn đề khác. Đối với dự thảo Báo cáo Chính trị , phần lớn ý kiến tập trung đánh giá, góp ý về kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI (2011-2015) và nhìn lại 30 năm đổi mới (1986-2016); Mục tiêu, nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2016-2020… Với Dự thảo Báo cáo đánh giá kết quả phát triển KT-XH , phần lớn các ý kiến tập trung vào phần thứ hai “Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển KT-XH 5 năm 2016-2020” với những nội dung thiết thực.
Hầu hết các ý kiến đều khẳng định, việc triển khai lấy ý kiến các tầng lớp nhân dân đã phát huy cao độ tính dân chủ, thẳng thắn, trách nhiệm, cầu thị của Đảng, tâm huyết, trí tuệ và tinh thần xây dựng của các tầng lớp nhân dân.
Những ý kiến tâm huyết, trí tuệ của nhân dân
Qua tập hợp, đánh giá bước đầu, đa số các ý kiến của nhân dân đều rất tâm huyết, trí tuệ đã góp ý, kiến nghị với Đảng nhằm điều chỉnh, bổ sung, làm sâu sắc thêm một số nội dung để Văn kiện Đại hội XII của Đảng thật sự là những định hướng lớn, tầm nhìn xa rộng, giải pháp đồng bộ, khả thi, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nhiều ý kiến đồng tình khẳng định, Dự thảo Báo cáo Chính trị được chuẩn bị công phu, nghiêm túc, khoa học, có chất lượng, tính khái quát cao; chủ đề Đại hội XII của Đảng về cơ bản đã bao quát những vấn đề quan trọng, cốt lõi của đất nước và của Đảng. Các dự thảo văn kiện có bước phát triển đáng kể về lý luận, phản ánh khách quan thực tiễn, tình hình trong nước và thế giới, tính chất và xu thế thời đại; đề ra những định hướng vừa khái quát, vừa thiết thực cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Về đánh giá tổng quát kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI (2011-2015) và nhìn lại 30 năm Đổi mới (1986-2016) , đa số ý kiến cho rằng, dự thảo văn kiện đã đánh giá đúng những nỗ lực và thành tựu của đất nước trong nhiệm kỳ qua; đồng tình với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm tới; góp phần làm rõ những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm, nguyên nhân, bài học. Nhiều ý kiến băn khoăn vì sao chúng ta chậm và lúng túng trong đổi mới tư duy kinh tế; nền kinh tế nước ta đến nay chủ yếu phát triển theo chiều rộng, tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp, chưa dựa nhiều vào tri thức, khoa học và công nghệ, lao động có kỹ năng. Năng suất lao động chậm được cải thiện, thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực. Tăng trưởng nông nghiệp chủ yếu theo chiều rộng, dựa trên mức độ thâm dụng các vật tư cho sản xuất và chi phí lao động rẻ. Nông nghiệp phát triển chưa ổn định, tốc độ tăng trưởng giảm dần, sức cạnh tranh không cao, đang đối mặt với ảnh hưởng ngày càng gay gắt của biến đổi khí hậu, nông dân vẫn gặp nhiều khó khăn và chịu thiệt thòi.
Một số ý kiến cho rằng, phần đánh giá hạn chế, khuyết điểm vẫn chưa toàn diện, đầy đủ, đề nghị bổ sung các nội dung điều hành kinh tế vĩ mô còn chồng chéo, bất cập; quản lý kinh tế còn yếu kém, chưa làm tốt khâu điều tiết thị trường; hoạt động của các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước hiệu quả thấp, năng lực cạnh tranh yếu; đầu tư phát triển còn dàn trải, hiệu quả thấp… Nhiều ý kiến đồng tình với nhận định “trực tiếp và quyết định nhất là nguyên nhân chủ quan”. Đề nghị chỉnh sửa, bổ sung nhận định: Những hạn chế, yếu kém nêu trên chủ yếu là do năng lực lãnh đạo của Đảng, điều hành của Chính phủ trong lĩnh vực kinh tế, nhất là việc xác định đường lối phát triển kinh tế cho từng thời kỳ.
Về mục tiêu, nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2016-2020 , nhiều ý kiến đề nghị bổ sung dự báo tình hình thế giới: “chạy đua vũ trang”, “an ninh mạng”, “chiến tranh điện tử”, “tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt, phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ khó lường”… từ đó có đối sách hợp lý. Có nhiều ý kiến đề nghị nêu thêm một đặc điểm của những năm sắp tới: Nước ta sẽ phải giải quyết đồng thời ba nhiệm vụ nặng nề là duy trì đà phục hồi vững chắc hơn, mặt khác sẽ phải thực hiện có hiệu quả hơn hai nhiệm vụ mang tính dài hạn là đẩy mạnh quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại (hoặc tiên tiến) trong bối cảnh kinh tế quốc tế ẩn chứa nhiều nhân tố bất an, khó lường và nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng kinh tế khu vực và thế giới.
Về nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XII , có ý kiến cho rằng, ở câu “Phát triển kinh tế nhanh, bền vững, xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” cần xác định rõ hơn mốc thời gian, vì dùng từ “sớm” không thể hiện rõ lộ trình và quyết tâm chính trị. Đã có từ “sớm” thì nên bỏ từ “cơ bản”. Có ý kiến cho rằng, trong giai đoạn hiện nay, cùng với việc thực hiện mục tiêu “sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” thì nông nghiệp vẫn phải là lĩnh vực ưu tiên và cần được đầu tư tương xứng cả về nguồn lực và cơ chế chính sách; cần tập trung ưu tiên phát triển hạ tầng, nhất là khu vực nông thôn, miền núi.
Về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước , nhiều ý kiến cho rằng, các dự thảo văn kiện đã bổ sung, phát triển nhiều nội dung mới, trong đó có nhiều điểm mới về kinh tế: khẳng định quyết tâm tôn trọng đầy đủ những quy luật khách quan của kinh tế thị trường, có thái độ, giải pháp ứng xử đúng đắn trong quá trình quản lý và vận hành nền kinh tế, khắc phục tình trạng áp đặt ý chí chủ quan khiến nền kinh tế phát triển lệch lạc, kém sức cạnh tranh. Có ý kiến đề nghị, ở tầm vĩ mô, cần tập trung triển khai tái cơ cấu đầu tư mà trọng tâm là đầu tư công. Đối với thị trường tài chính, cần xây dựng khung chính sách “cứng” một cách khoa học, đúng quy luật thị trường và tăng cường hiệu quả quản lý; tiến tới có thể khống chế và giảm thiểu tình trạng nợ xấu, tham nhũng, lợi ích nhóm. Một số ý kiến, nhất là giới doanh nhân, đồng tình với quan điểm đánh giá đúng mức vai trò của kinh tế tư nhân, sự ghi nhận của Đảng và Nhà nước cùng với các chính sách đúng đắn đi kèm. Qua dự thảo văn kiện lần này, vị thế của kinh tế tư nhân ở Việt Nam đã có một bước tiến dài so với trước.
Có ý kiến đề nghị, trong Đại hội XII, Đảng ta cần thảo luận sâu sắc một số vấn đề: Đổi mới tư duy, nhận thức về kinh tế, về mô hình tăng trưởng, xây dựng kế hoạch phát triển KT – XH giai đoạn 2016 – 2020 định hướng đến 2030 phải dựa trên tác động lan tỏa của các vùng động lực kinh tế; thực hiện phân bổ nguồn lực quốc gia theo đúng tinh thần của Cương lĩnh năm 2011 là phân bổ cho mọi thành phần kinh tế, không phân biệt là doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân; áp dụng mô hình tam giác phát triển trong việc đánh giá và hoạch định kế hoạch phát triển KT – XH (kinh tế – môi trường sống – an sinh xã hội)…
Một số ý kiến đề nghị, dự thảo văn kiện cần làm rõ nội hàm khái niệm “định hướng XHCN”; làm rõ khái niệm “nền kinh tế thị trường hiện đại” khác gì so với nền kinh tế thị trường thông thường? Cần đưa ra định hướng xây dựng nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đầy đủ và quy định rõ việc Nhà nước can thiệp ở mức độ nào cho phù hợp. Có ý kiến đề nghị xác định đầy đủ hơn: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, các đặc điểm lịch sử – văn hóa dân tộc và mục tiêu của sự nghiệp cách mạng.
Về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực, có ý kiến cho rằng, những năm qua, việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng đầu” còn chậm và lúng túng. Tình trạng yếu kém, lạc hậu về giáo dục vẫn chưa được khắc phục, luôn là bức xúc của xã hội và là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự yếu kém, lạc hậu trong phát triển KT – XH đất nước. Một số ý kiến cho rằng, cần đổi mới mạnh mẽ việc phát hiện, sử dụng, đãi ngộ nhân tài.
Về phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, có ý kiến đề nghị cần tập trung vào nhóm giải pháp về công tác triển khai thực hiện và nhân rộng kết quả ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; cần có những chính sách đầu tư mạnh mẽ hơn nữa trong việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ những người làm công tác nghiên cứu khoa học thật sự có chuyên môn, nghiệp vụ giỏi. Đề nghị cần xây dựng thị trường nghiên cứu khoa học như thành lập các quỹ đầu tư, sàn giao dịch; cần đề ra chỉ tiêu cụ thể về mức đầu tư cho khoa học, công nghệ từ ngân sách nhà nước (đạt tối thiểu 2%) và từ GDP (đạt 1%). Cần có chính sách cụ thể huy động đầu tư của xã hội và doanh nghiệp cho nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ.
Về phát triển văn hóa, xây dựng con người , nhiều ý kiến đồng tình, trong đó, có ý kiến đánh giá cao những điểm mới về văn hóa nêu trong Dự thảo văn kiện trình Đại hội XII, phản ánh bước tiến về tư duy lý luận của Đảng. Có ý kiến đề nghị cần phải chú trọng hơn nữa việc giáo dục văn hóa trong gia đình; văn hóa phải thật sự là nền tảng của mọi lĩnh vực, có sự kết hợp tham gia chặt chẽ và hành động quyết liệt giữa ba “nhà”: nhà quản lý – nhà khoa học – nhà doanh nghiệp để phát triển thị trường văn hóa, đồng thời phải biết cách khai thác tài nguyên văn hóa. Một số ý kiến đề nghị, nên quan tâm “xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện”. Chú trọng giáo dục đạo đức, nhân cách, lối sống, tình yêu quê hương, đất nước cho thế hệ trẻ. Tập trung tạo dựng hệ giá trị người Việt Nam, làm sao để khát vọng đưa đất nước sánh vai các cường quốc trên thế giới là mạnh mẽ, khao khát thường trực của mỗi người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ.
Về quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội , nhiều ý kiến cho rằng, dự thảo văn kiện đã xác định bốn nhóm chính sách, từ chính sách người có công đến lao động, việc làm; từ trợ giúp nhóm dân cư yếm thế dễ bị tổn thương đến giảm nghèo theo phương pháp tiếp cận đa chiều; và đánh giá cao những điểm mới, đáng chú ý nhất là việc bảo đảm an sinh xã hội, xác định chuyển từ “ hỗ trợ nhân dân ” sang “ bảo đảm quyền an sinh ” của công dân. Tuy nhiên, cần sắp xếp lại thứ tự các nhóm chính sách để có thể dễ hình dung hệ thống các chính sách đó được “thiết kế” như một mạng lưới có các tầng nấc khác nhau, bảo đảm không có bất cứ thành viên nào trong xã hội bị lọt khỏi “lưới” an sinh.
Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới đòi hỏi quan trọng, cấp bách, trong Dự thảo văn kiện trình Đại hội XII được đặt riêng thành một mục lớn. Đây không chỉ là một sự đổi mới về kết cấu văn kiện, hình thức câu chữ, mà còn cho thấy sự đổi mới về quan điểm, mục tiêu, yêu cầu công tác quốc phòng – an ninh trong tình hình mới. Có ý kiến cho rằng, lần đầu tiên, Dự thảo Báo cáo Chính trị đề cập nội dung “bảo vệ nền văn hóa dân tộc” trong mục tiêu trọng yếu của quốc phòng – an ninh”; xác định “kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng – an ninh và quốc phòng – an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội”. Điều này thể hiện nội hàm của văn hóa trong dự thảo lần này đã có sự phát triển vượt bậc.
Về hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa , khá nhiều ý kiến đề nghị, cần tham khảo nghiêm túc mô hình các nước tiên tiến trên thế giới về cách thức quản lý nhà nước, xây dựng và thực thi pháp luật; có cơ chế thật tốt để giám sát quyền lực, tránh lạm quyền; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng; thực hiện công khai, minh bạch, dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Đội ngũ cán bộ trong bộ máy nhà nước phải thật sự gương mẫu, trọng dân, liêm khiết, có đức, có tài. Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp; tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thật sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân.
Dân tin Đảng sẽ đổi mới, chỉnh đốn thành công
Đa số ý kiến cho rằng, trong những năm tới, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XI). Có ý kiến đề nghị, cần có những biện pháp mạnh trong phòng ngừa, xử lý hành vi tham nhũng, nạn thất thoát, lãng phí ngân sách, lợi ích nhóm trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Làm được điều này mới củng cố niềm tin trong nhân dân với Đảng.
Nhiều ý kiến nhấn mạnh, việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, kết hợp giữa xây dựng với chỉnh đốn, làm cho Đảng thật sự là Đảng cách mạng chân chính như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ then chốt, có tính cốt tử. Nhiều ý kiến đề nghị Trung ương đánh giá sâu sắc hơn việc triển khai chỉ đạo và thực hiện Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, nhất là kết quả thực hiện, những hạn chế, yếu kém, nguyên nhân; những nhiệm vụ, giải pháp quyết liệt nhằm đẩy mạnh việc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng. Có ý kiến đề nghị, trong năm bài học, thì bài học thứ năm về đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, đặc biệt coi trọng công tác tổ chức – cán bộ là yếu tố quyết định; mặt khác, bài học thứ hai về quán triệt và thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, là yếu tố cực kỳ quan trọng. Đảng phải thật sự trở thành tấm gương về dân chủ trong xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng là để bảo đảm mọi quyền lực thật sự thuộc về nhân dân. Để nhân dân tin Đảng là của nhân dân, mọi việc đều phải bắt đầu từ nhân dân và cuối cùng cũng vì nhân dân. Một số ý kiến đề nghị bổ sung nội dung: “Hoàn thiện nội dung nền dân chủ XHCN và thực hiện đồng bộ, triệt để; đại đoàn kết toàn dân tộc gắn liền với xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống chính trị”; phát huy vai trò, trách nhiệm và quyền của các tầng lớp nhân dân đối với việc tham gia công tác xây dựng Đảng, Nhà nước.
★★★
Có thể khẳng định, những ý kiến đóng góp đầy trách nhiệm, trí tuệ và tâm huyết suốt nhiều tháng qua là minh chứng về niềm tin với Đảng của các tầng lớp nhân dân đang được củng cố, bồi đắp. Đồng thời cũng là cơ sở quan trọng để Đảng ta quyết tâm tự đổi mới, chỉnh đốn, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu, xứng đáng với sứ mệnh là chính đảng lãnh đạo, cầm quyền duy nhất của đất nước Việt Nam.
Theo Nhandan.org.vn
Ý kiến ()