Những thách thức đối với ngành thép
Sản xuất thép cuộn tại doanh nghiệp trong nước ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Áp lực cạnh tranh
Năm 2018, mặt bằng giá thép tại Việt Nam duy trì ở mức khoảng 13 triệu đồng/tấn, cao hơn khoảng 15% so với cùng kỳ năm 2017 nhờ hưởng lợi từ chính sách cắt giảm sản lượng thép tại Trung Quốc kéo dài. Cùng với đó, giá nguyên liệu quặng sắt vẫn giữ mức ổn định trong khoảng từ 60 đến 70 USD/tấn đã tạo thuận lợi cho doanh nghiệp (DN) thép trong nước phát triển. Theo báo cáo của Bộ Công thương, so với năm 2017, ngành thép duy trì đà tăng trưởng khoảng 20% trong năm 2018, trong đó sản xuất thép xây dựng tăng 10%, thép lá cuộn cán nguội tăng 5%, thép ống hàn tăng 15% và sản xuất tôn mạ, sơn phủ mầu tăng 12%, nhất là, sản xuất thép cuộn cán nóng tăng mạnh nhất với 154%.
Có được đà tăng trưởng này phần lớn là do kinh tế vĩ mô ổn định, nhiều dự án hạ tầng, xây dựng, bất động sản được triển khai trong năm 2018, nhất là giải ngân vốn đầu tư công đã được Chính phủ chú trọng triển khai ngay từ những tháng đầu năm 2018, tạo tiền đề tốt cho tăng trưởng của ngành. Tuy nhiên, nhìn vào những con số tăng trưởng nêu trên cũng không thể đánh giá hết toàn cảnh “bức tranh” của ngành thép, khi sự cạnh tranh vẫn diễn ra hết sức khốc liệt cả thị trường trong nước và thế giới. Những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thép của Việt Nam được đẩy mạnh càng khiến nhiều nước chú ý, xem xét áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM) để bảo vệ ngành sản xuất trong nước. Đáng chú ý, từ khi chủ nghĩa bảo hộ thương mại bắt đầu nhen nhóm trở lại cũng khiến ngành thép Việt Nam giảm khả năng xuất khẩu do bị vướng nhiều vụ kiện PVTM.
Việc phải đối mặt với các chính sách khó khăn này đã ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu của thép Việt Nam. Đồng thời, ngay tại thị trường trong nước, sự cạnh tranh gay gắt với thép nhập khẩu cũng ngày càng gia tăng. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, năm 2018, nước ta nhập khẩu 13,53 triệu tấn sắt thép các loại, trị giá 9,89 tỷ USD, dù giảm 9,8% về lượng, nhưng lại tăng 9% về trị giá so với năm 2017. Trong đó, Trung Quốc tiếp tục là thị trường cung cấp sắt thép các loại lớn nhất vào Việt Nam với 6,27 triệu tấn, trị giá 4,5 tỷ USD, giảm 10,2% về lượng, nhưng tăng 9,6% về trị giá so năm trước. Điều này đã tác động đến hiệu quả sản xuất của nhiều nhà máy, nhất là các nhà máy cán thép thuần túy, chi phí phôi thép đầu vào tăng cao, trong khi giá thép thành phẩm không thể tăng tương ứng. Mặt khác, tình trạng lâu nay cung luôn vượt cầu của ngành thép, dẫn tới cuộc chiến giành thị phần khá căng thẳng, tạo thêm nhiều áp lực cho sự phát triển bền vững của ngành.
Cần chủ động, nâng cao năng lực
Trước những khó khăn cả chủ quan và khách quan nêu trên, Tổng Giám đốc Tổng công ty Thép Việt Nam Nguyễn Đình Phúc nhận định, diễn biến giá, tình hình cạnh tranh trên thị trường thế giới và trong nước gần đây rất phức tạp. Vì vậy, xu hướng giá thép trong thời gian tới vẫn chưa rõ ràng và bị chi phối nhiều bởi nhiều yếu tố, khó đoán định, nhất là những căng thẳng kinh tế, thương mại trên thế giới. Với đầu xuất khẩu đang dần hẹp lại, trong khi nhu cầu trong nước không thể hấp thụ hết sẽ gây áp lực lớn lên giá bán và sản lượng thép, làm thay đổi cán cân cung – cầu thị trường. Ngoài ra, nguy cơ thép Trung Quốc thừa nguồn cung (dự báo có thể kéo dài trong ba năm tới) có giá thấp bị “nghẽn” lại bởi các chính sách PVTM sẽ tuồn vào Việt Nam gây ra sự cạnh tranh với các DN Việt Nam. Bên cạnh đó, nguồn cung năm 2019 dự kiến sẽ tăng khi dự án gang thép Dung Quất của Tập đoàn Hòa Phát và một số dự án mới đi vào hoạt động, sẽ càng khiến “cuộc chiến” giành “miếng bánh” thị phần của các DN thép càng khốc liệt hơn. Do đó, các DN cần phân tích, nắm bắt thị trường để cân đối sản xuất, kinh doanh, chú ý vấn đề cung – cầu của thị trường. Đồng thời, cần đẩy mạnh cơ cấu lại, đổi mới đầu tư, quản trị DN để nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh.
Nhiều chuyên gia cũng cho rằng, năm 2019 sẽ là một năm đầy khó khăn, thách thức với ngành thép do xu hướng bảo hộ trên thế giới vẫn gia tăng, nhu cầu thép trong nước chưa cho thấy dấu hiệu tích cực. Hơn nữa, giá điện năm 2019 sẽ tăng, tác động trực tiếp đến tình hình sản xuất kinh doanh của các DN, trong khi giá đầu ra bị hạn chế do nguồn cung dư thừa. Những yếu tố này làm gia tăng áp lực đến hiệu quả kinh doanh của các DN, nhất là các DN thuần sản xuất phôi thép, thép cán, tôn mạ. Vì vậy, theo Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) Nguyễn Văn Sưa, hơn lúc nào hết, các DN cần tập trung các giải pháp đồng bộ. Theo đó, nâng cao năng lực cạnh tranh, chủ động hơn nữa trong sản xuất, kinh doanh, nhất là cần tập trung khắc phục tình trạng sản xuất cung vượt cầu như hiện nay. Xây dựng chiến lược bài bản, rà soát cắt giảm các chi phí không cần thiết để giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Đầu tư, nghiên cứu các sản phẩm Việt Nam chưa sản xuất được, có tiềm năng phát triển lớn như: phôi dẹt, thép cuộn cán nóng hay các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao như thép cơ khí chế tạo. Từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm, xác định rõ ràng nguồn gốc sản phẩm nhằm tạo thuận lợi trong xuất khẩu sang thị trường khác, tránh việc bị áp thuế không đáng có bởi thép là một trong những mặt hàng chịu nhiều áp lực nhất từ PVTM.
Năm 2019, ngành thép Việt Nam vẫn có cơ hội tăng trưởng khi Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao ở mức 6,8 đến 7%. Sau ba năm hẫng hụt giải ngân vốn đầu tư công, năm nay, Chính phủ quyết tâm đẩy mạnh giải ngân đầu tư công. Điều này sẽ giúp cải thiện tình hình tiêu thụ thép và dự báo, năm 2019, ngành thép vẫn có thể tăng trưởng ở mức 10%. Nguyễn Văn Sưa Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) |
Theo Nhandan
Ý kiến ()