Những mốc son trên quê hương núi Ấn, sông Trà
Sau 25 năm tái lập tỉnh, Quảng Ngãi đã trải qua nhiều khó khăn và không ngừng vươn lên xây dựng quê hương núi Ấn, sông Trà ngày càng phát triển toàn diện, bền vững, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Tỉnh Quảng Ngãi đã được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh.
Sau 25 năm tái lập tỉnh, Quảng Ngãi đã trải qua nhiều khó khăn và không ngừng vươn lên xây dựng quê hương núi Ấn, sông Trà ngày càng phát triển toàn diện, bền vững, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Tỉnh Quảng Ngãi đã được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh.
Quê hương tỏa sáng
25 năm sau ngày tái lập tỉnh (1-7-1989) từ nền kinh tế có điểm xuất phát thấp, kết cấu hạ tầng yếu kém, Quảng Ngãi đã có bước đột phá nhanh trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo đảm phát triển kinh tế -xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Nhờ đó, tăng trưởng kinh tế liên tục giữ mức cao. So với năm 1989, GDP gấp 10,48 lần (trong đó nông, lâm nghiệp và thủy sản gấp 3,17 lần, công nghiệp -xây dựng gấp 40,20 lần, dịch vụ tăng gấp 10,32 lần). Bình quân thời kỳ từ khi tái lập tỉnh, GDP tăng 10,28%/năm. Thu ngân sách trên địa bàn đạt nhiều kết quả vượt bậc, nhất là từ khi Nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động. Từ những năm 1990, nguồn thu của tỉnh với khoảng 22 tỷ đồng, đến năm 2013, thu ngân sách đạt hơn 30.199 tỷ đồng, gấp 1.372 lần, đứng thứ 4 cả nước. Thu nhập bình quân đầu người tăng rõ rệt, từ 388 nghìn đồng năm 1990 tăng lên 24,023 triệu đồng vào năm 2010 và đạt 43,779 triệu đồng năm 2013, gấp 112 lần so với năm 1990.
Có thể nói, Quảng Ngãi đã tạo động lực phát triển ngành công nghiệp vượt bậc từ môi trường đầu tư yếu kém trước đây nay đã vươn lên vị trí thứ 7/63 tỉnh, thành phố trong cả nước năm 2013 về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). Đến nay, Quảng Ngãi thu hút 28 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 4.020 triệu USD.Từ một tỉnh chưa có Khu công nghiệp, cụm công nghiệp đến nay đã có Khu kinh tế (KKT) Dung Quất, các khu công nghiệp Tịnh Phong, Quảng Phú, trong đó một số nhà máy quy mô lớn như là Nhà máy lọc dầu Dung Quất, Doosan Vina, giải quyết việc làm cho 12.600 lao động. Đặc biệt, năm 2013 tỉnh đã tổ chức khởi công Khu công nghiệp – đô thị và dịch vụ VSIP, góp phần tạo thế liên kết sản xuất đa dạng hóa sản phẩm… Với giá trị sản xuất công nghiệp năm 2013 gấp 83,65 lần so năm 1989 và gấp 7,86 lần năm 2008 (riêng giai đoạn 2009 -2013 tăng bình quân 51%/năm). Các ngành thương mại, dịch vụ, xuất nhập khẩu phát triển khá với sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế, chất lượng các dịch vụ đã được nâng cao. Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng gấp 12,3 lần so với năm 1989, bình quân hằng năm tăng 11,01%. Hiện nay, tỉnh có khoảng 40 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu các mặt hàng có giá trị cao đến 30 quốc gia và vùng lãnh thổ… Nhờ đó, tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh tăng đột biến, đạt 508,8 triệu USD năm 2013, tăng gấp 610 lần so với những năm đầu tái lập tỉnh.
Kết cấu hạ tầng, khu đô thị, các khu công nghiệp, khu kinh tế ngày càng phát triển. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 1989 – 2013 khoảng 143.000 tỷ đồng. Ngày đầu KKT Dung Quất chỉ có 10.300 ha, đến nay đã được quy hoạch mở rộng lên 45.332 ha. Hiện nay, thương hiệu Dung Quất – Quảng Ngãi đã được mọi người quan tâm -bởi nơi đây có các nhà máy hóa dầu, cảng biển nước sâu Dung Quất, Nhà máy lọc dầu Dung Quất và Công ty công nghiệp nặng Doosan… TP Quảng Ngãi là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh, đến nay đã điều chỉnh, mở rộng địa giới hành chính về phía bắc và phía đông bao gồm chín xã và một thị trấn của huyện Sơn Tịnh và ba xã của huyện Tư Nghĩa, nâng diện tích tự nhiên và dân số của thành phố Quảng Ngãi lên 16.015,34 ha và 260.252 người. Tại các huyện cũng đã hình thành và phát triển các đô thị như ở phía nam có Đức Phổ, phía bắc có Châu Ổ, phía tây có Di Lăng…
Hạ tầng giao thông được quan tâm đầu tư một cách mạnh mẽ, góp phần vào những thành tựu đổi mới của tỉnh. Ngay thời điểm 1989, toàn tỉnh chỉ có hai tuyến quốc lộ, tỷ lệ nhựa hóa, cứng hóa còn thấp. Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã có bốn tuyến quốc lộ, 11 tuyến đường tỉnh, đường đô thị tăng 2,5 lần, đường huyện tăng 1,4 lần, đường xã tăng tám lần. Đặc biệt, Cảng Dung Quất, Cảng Sa Kỳ và Cảng rót dầu không bến đã được đầu tư xây dựng và khai thác rất hiệu quả. Khối lượng vận tải hành khách giai đoạn từ năm 1989 – 2014 tăng trưởng bình quân đạt 11,2%/năm và khối lượng vận tải hàng hóa tăng trưởng 14,43%/năm. Hệ thống mạng lưới điện trước đây chỉ cung cấp cho thị xã Quảng Ngãi, đến nay đã cung cấp cho 92% dân số toàn tỉnh.
Đời sống đổi thay
Sự chuyển dịch kinh tế nông nghiệp nhanh chóng, bền vững đã đem lại giá trị sản xuất nông – lâm – thủy sản của tỉnh năm 2013 tăng gấp 3,58 lần so với năm 1989, bình quân hằng năm tăng 5,46%. Sản lượng lương thực có hạt từ 238 nghìn tấn lên 468,55 nghìn tấn (tăng gấp 2 lần) và sản lượng lương thực bình quân đầu người từ 226,5 kg/người lên 379 kg/người (tăng 1,67 lần). Với nhiều lợi thế về ngư trường đánh bắt, nuôi trồng và chế biến, sản lượng thủy sản đánh bắt từ 16.917 tấn năm đầu tái lập tỉnh đã tăng lên 140.043 tấn năm 2013, gấp 8,27 lần; số lượng tàu cá không ngừng tăng lên, nhất là tàu có công suất lớn phục vụ đánh bắt xa bờ, đến nay toàn tỉnh có khoảng 5.418 tàu thuyền, với tổng công suất 870.178 CV.Sản xuất thủy sản đã và đang góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất cho nông dân ở các vùng ven biển và nông thôn, cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu, đồng thời góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Chương trình nông thôn mới từ khi được triển khai trên địa bàn tỉnh đã đạt nhiều thành tựu đáng khích lệ. Nhiều vùng nông thôn, miền núi và hải đảo đã thay da đổi thịt rõ nét, tạo được ổn định cuộc sống cho người dân…
Trên quê hương Quảng Ngãi hôm nay không những phát triển nhanh chóng, hiệu quả trên các lĩnh vực văn hóa – xã hội, thể thao, du lịch, báo chí, các cơ quan truyền thông, an sinh xã hội, mà đặc biệt ngành Giáo dục và Đào tạo được đổi mới căn bản ở các cấp học, bậc học, chất lượng giáo dục, trình độ đội ngũ giáo viên được nâng lên đúng tầm. Là một tỉnh có sáu huyện miền núi nằm trong 69 huyện nghèo của cả nước, nhưng đến nay 100% các huyện, thành phố hoàn thành phổ cập tiểu học và trung học cơ sở. Tổng số trường đạt chuẩn quốc gia trên địa bàn tỉnh là 266/633 trường. Tỷ lệ học sinh trúng tuyển vào các trường cao đẳng, đại học tương đối cao, từ khi tái lập tỉnh đến nay đã có 103.005 lượt trúng tuyển nguyện vọng 1 vào các trường đại học và 2.604 lượt học sinh các con em đồng bào dân tộc trúng cử tuyển, tạo thành nguồn nhân lực quan trọng cho tỉnh nhà.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, mạng lưới y tế cơ sở từng bước được củng cố về số lượng và chất lượng. Nếu như năm 1990 có 9,99 giường bệnh/vạn dân, 91,5% xã, phường có trạm y tế, 1,81 bác sĩ/vạn dân, 1.080 giường bệnh thì đến năm 2013 có 19,99 giường bệnh/vạn dân, 99% xã, phường có trạm y tế, 5 bác sĩ/vạn dân, 2.485 giường bệnh.
Giải quyết việc làm đạt kết quả khá, cơ cấu lao động tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng dần lao động công nghiệp, dịch vụ, từ một tỉnh có tỷ lệ lao động nông-lâm nghiệp và thủy sản là chủ yếu, chiếm hơn 76,15% năm 1996 nay giảm xuống dưới 50% vào năm 2013. Từ một tỉnh không có phong trào về xuất khẩu lao động, đến nay hoạt động xuất khẩu lao động đã thu hút sự quan tâm của nhiều hộ gia đình, góp phần giải quyết việc làm và xóa đói, giảm nghèo cho nhân dân, nhất là lao động ở nông thôn, miền núi.
Công tác giảm nghèo có nhiều tiến bộ và đạt kết quả tích cực, đặc biệt là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2006 trên địa bàn tỉnh là 31,94%, đến cuối năm 2010, còn 15,4% (trong đó, sáu huyện miền núi chiếm 35,23%). Theo chuẩn hiện nay giai đoạn 2011 – 2015, đến cuối năm 2013, số hộ nghèo trên địa bàn tỉnh còn 14,93%. Chính sách hỗ trợ hộ nghèo, hộ gia đình có công với cách mạng về nhà ở đã mang lại hiệu quả rõ rệt trong đời sống nhân dân…
Hệ thống thiết chế văn hóa từ tỉnh đến cơ sở có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trên 30% số xã, phường, thị trấn có Nhà văn hóa; có 72,7% khối phố, 79,4% gia đình, 90,5% cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn hóa. Phong trào sinh hoạt văn hóa văn nghệ ở cơ sở diễn ra sôi nổi, nhiều hội thi hội diễn nghệ thuật được các huyện, thành phố tổ chức phục vụ nhân dân và góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống ở địa phương.
Quốc phòng an ninh được tăng cường, giữ vững ổn định chính trị – xã hội; công tác đối ngoại được đẩy mạnh, góp phần tích cực vào các thành tựu chung của tỉnh. Thường xuyên duy trì mối quan hệ giữa Quảng Ngãi và các tỉnh phía nam của nước bạn Lào; chủ động phối hợp với các lực lượng liên quan thực hiện hiệu quả các chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời các hoạt động tình báo, phá hoại, hoạt động các loại tội phạm, phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai; bảo đảm các vấn đề an ninh và trật tự an toàn xã hội. Những kết quả đó góp phần xứng đáng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới đất nước. Ghi nhận, đánh giá cao những thành tựu, đóng góp to lớn đó, Đảng và Nhà nước đã trao tặng Đảng bộ và nhân dân Quảng Ngãi nhiều Huân chương và danh hiệu cao quý cho các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
25 năm qua, trên quê hương núi Ấn, sông Trà có những mốc son tỏa sáng là do sự phấn đấu của toàn Đảng bộ, quân và dân trong tỉnh, trong đó có vai trò quan trọng của các tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp từ tỉnh đến cơ sở. Đặc biệt, gần đây Tỉnh ủy đã triển khai quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” gắn với thực hiện việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã tạo ra những chuyển biến rộng rãi, tích cực và thật sự đã mang lại hạnh phúc, ấm no cho người dân.
Phấn đấu trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020
Với chương trình, mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế -xã hội của tỉnh đã đề ra khá cụ thể, trước mắt, giai đoạn 2011 – 2015, Quảng Ngãi phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6,9%; cơ cấu kinh tế ngành Nông -lâm nghiệp và thủy sản trong GDP chiếm dưới 15%; lao động phi nông nghiệp trên 53%. Trong bối cảnh khó khăn, thách thức to lớn đan xen, Đảng bộ và nhân dân Quảng Ngãi cần phát huy truyền thống của địa phương có bề dày lịch sử và đoàn kết phấn đấu, đi đầu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện thắng lợi ba nhiệm vụ đột phá chiến lược và hai nhiệm vụ trọng tâm, đó là: phát triển công nghiệp; phát triển đô thị; phát triển nguồn nhân lực; phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, phấn đấu giảm nghèo nhanh và bền vững ở sáu huyện miền núi. Bên cạnh đó, cần quan tâm phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa-xã hội, chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đề an sinh xã hội, bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phát huy dân chủ và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị từ tỉnh tới cơ sở trong sạch, vững mạnh, có năng lực và sức chiến đấu cao. Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền trung, nằm trong hành lang kinh tế Đông -Tây có nhiều tiềm năng và lợi thế, Quảng Ngãi tiếp tục đẩy mạnh đồng bộ các giải pháp lớn, tạo ra những mốc son mới trên quê hương và phấn đấu cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 mà Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII đã đề ra.
Theo Nhandan.vn
Ý kiến ()