Nhiều thách thức trong phát triển thanh toán không dùng tiền mặt khu vực nông thôn
Trong thời gian qua, hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) tại Việt Nam nói chung đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Tuy nhiên, việc phát triển TTKDTM khu vực nông nghiệp, nông thôn còn nhiều hạn chế do đại bộ phận người dân chưa có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ và tiện ích thanh toán hiện đại.
Rào cản lớn cho phát triển TTKDTM tại nông thôn
Hiện nay, Chính phủ kêu gọi chuyển đổi các giao dịch từ tiền mặt sang thanh toán không dùng tiền mặt. Thanh toán điện tử được khuyến khích bởi những hoạt động thanh toán này sẽ để lại dấu vết điện tử mà nhà chức trách có thể dễ dàng kiểm tra, giám sát. Người dân đặc biệt là những người nông dân ở nông thôn, vùng sâu vùng xa cũng sẽ không phải đến ngân hàng để rút tiền, gửi tiền và có thể thanh toán ở bất cứ nơi nào, bất cứ thời gian nào (24/7). Giao dịch trở nên dễ dàng và nhanh chóng hơn, góp phần kích thích hoạt động thương mại.
Theo Ngân hàng Nhà nước, cơ sở hạ tầng và công nghệ phục vụ TTKDTM tiếp tục được chú trọng đầu tư, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả; công tác đảm bảo an ninh, an toàn thanh toán điện tử được coi trọng và tăng cường; số lượng các máy giao dịch tự động (ATM), thiết bị chấp nhận thẻ (POS) tiếp tục tăng lên. Đến ngày 30/6/2018, trên toàn quốc có trên 18.280 ATM và trên 289.070 POS đang hoạt động (tăng tương ứng 4,2% và 7,5% so với cuối năm 2017); POS hiện đã được lắp đặt tại hầu hết các cơ sở, chuỗi phân phối, bán lẻ, khách sạn lớn, đang mở rộng dần ra các cơ sở y tế, bệnh viện, trường học.
Các phương tiện thanh toán, dịch vụ thanh toán phát triển mạnh, đa dạng, nhất là các phương tiện, dịch vụ thanh toán mới, hiện đại ứng dụng công nghệ thông tin và viễn thông.
Tuy nhiên, Phó Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam Phạm Tiến Nam đánh giá, thực tế là đến thời điểm hiện nay việc phát triển thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam, đặc biệt là khu vực nông nghiệp, nông thôn còn nhiều hạn chế. Có tới 40% số dân Việt Nam đã có tài khoản ngân hàng, nhưng vẫn còn tới 90% chi tiêu hằng ngày sử dụng tiền mặt, 99% sử dụng tiền mặt khi thanh toán các mặt hàng dưới 100 nghìn đồng và có tới gần 85% giao dịch tại ATM là giao dịch rút tiền.
“Những số liệu này cho thấy, việc phát triển thanh toán không dùng tiền mặt hướng tới mục tiêu năm 2020, tiền mặt chỉ xuất hiện ở mức thấp hơn 10% trên tổng phương diện thanh toán là 1 mục tiêu nhiều thách thức” – ông Nam chia sẻ.
Ông Phạm Tiến Nam cũng chỉ ra một số nguyên nhân chính khiến việc TTKDTM còn chưa phát triển ở khu vực nông nghiệp nông thôn. Đó là, những vùng như nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa, đại bộ phận người dân chưa có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ và tiện ích thanh toán hiện đại. Các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, việc rút, sử dụng và trả nợ của người vay bằng tiền mặt còn rất lớn. Đối với các hợp tác xã, các hộ sản xuất kinh doanh cá thể, chủ trang trại, tỉ trọng sử dụng tiền mặt còn lớn hơn. Thói quen tiêu dùng bằng tiền mặt đã ăn sâu, bén rễ vào tiềm thức của dân chúng, cho nên việc triển khai TTKDTM gặp nhiều khó khăn.
Người tiêu dùng trong nước nói chung và người nông dân, nông thôn nói riêng thường có thói quen sử dụng tiền mặt bởi phương thức thanh toán này rất nhanh, thuận tiện, không phức tạp và được chấp nhận ở mọi nơi. Ngoài ra, tiền mặt giúp họ dễ dàng quản lý ngân sách mà không lo phát sinh chi phí; đồng thời thanh toán bằng tiền mặt bảo đảm an toàn, riêng tư bởi không để lại dấu vết giao dịch và không lộ thông tin cá nhân.
Ngoài nhận thức, thói quen về sử dụng tiền mặt trong lưu thông, một nguyên nhân căn bản khác khiến cho việc phát triển thanh toán không dùng tiền mặt còn nhiều hạn chế tai Việt Nam nói chung và vùng nông nghiệp, nông thôn nói riêng chính là vấn đề liên quan đến hệ thống hạ tầng công nghệ.
Ông Nghiêm Thanh Sơn – Phó Vụ trưởng Vụ Thanh toán ngân hàng Nhà nước cũng cho rằng, thói quen, tâm lý sử dụng tiền mặt của người dân ở khu vực nông thôn còn phổ biến. Cùng với đó là tâm lý e ngại khi tiếp cận với công nghệ thanh toán mới, cũng như lo ngại về an ninh an toàn khi sử dụng các phương thức thanh toán điện tử.
Ngoài ra, ông Nghiêm Thanh Sơn cũng cho rằng hiện nay chưa có cơ sở pháp lý cho hoạt động ngân hàng đại lý. Đồng thời, thiếu cơ sở hạ tầng dữ liệu định danh điện tử. Mạng lưới chi nhánh, cơ sở hạ tầng thanh toán chủ yếu tập trung ở khu vực đô thị, chưa vươn tới được khu vực nông thôn nên việc triển khai TTKDTM ở khu vực nông thôn cũng gặp khó khăn.
Đặc biệt, các sản phẩm, dịch vụ tài chính chưa được thiết kế để phù hợp với hành vi, nhu cầu người sử dụng ở khu vực nông thôn, nhất là dịch vụ tài chính số, thanh toán qua điện thoại di động.
“Quy trình xử lý giao dịch như mở tài khoản, nộp rút tiền, gửi tiết kiệm, vay vốn… còn nặng về giấy tờ, thủ tục, chưa thuận tiện cho khách hàng ở khu vực nông thôn”, ông Sơn thẳng thắn nhìn nhận.
Cần nhiều giải pháp đồng bộ
Để thúc đẩy TTKDTM ở khu vực nông thôn, NHNN đã xây dựng và triển khai Đề án thí điểm một số hình thức TTKDTM ở khu vực nông thôn, qua đó sử dụng các phương thức thanh toán hiện đại nhưng dễ sử dụng, phù hợp với địa bàn nông thôn để mở rộng, thúc đẩy TTKDTM trên địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa, hải đảo.
Đến nay, NHNN đã chấp thuận triển khai thí điểm 03 mô hình: Dịch vụ chuyển tiền nhanh của NHTMCP Xăng dầu Petrolimex trên cơ sở hợp tác sử dụng mạng lưới các chi nhánh, cửa hàng xăng dầu của Petrolimex tại các khu vực nông thôn; Dịch vụ chuyển tiền giá trị nhỏ của NHTMCP Ngoại thương Việt Nam trên cơ sở hợp tác sử dụng mạng lưới các đại lý viễn thông của Công ty cổ phần Di động trực tuyến (M_Service) ở khu vực nông thôn; Dịch vụ chuyển tiền của NHTMCP Quân đội trên cơ sở hợp tác sử dụng mạng lưới của Tổng công ty Viễn thông Quân đội (Viettel) ở địa bàn nông thôn, miền núi, hải đảo.
Tính đến cuối quý I/2018, các mô hình thí điểm trên đã xây dựng được trên 72.000 điểm cung cấp dịch vụ thanh toán, chuyển tiền trên toàn quốc, phục vụ cho khoảng 7 triệu lượt khách hàng bao gồm cả các khách hàng chưa có tài khoản tại ngân hàng.
Ông Nghiêm Thanh Sơn cho biết, trong thời gian tới, để thúc TTKDTM ở khu vực nông thôn, NHNN xác định một số định hướng, giải pháp đồng bộ.
Cụ thể, nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đối với một số vấn đề như mô hình ngân hàng đại lý xác thực điện tử, tiền điện tử; mở rộng dịch vụ, phát triển các dịch vụ thanh toán phù hợp với khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, nhất là dịch vụ tài chính số, thanh toán qua đi động.
Bên cạnh đó, xây dựng hành lang pháp lý, cơ chế chính sách tạo thuận lợi, lĩnh vực phi ngân hàng tham gia vào việc cung ứng dịch vụ thanh toán hiện đại, phù hợp với địa bàn nông thôn, trong đó bao gồm việc xây dựng Khuôn khổ pháp lý thử nghiệm có kiểm soát (Regulatory Sandbox Framework) cho lĩnh vực Fintech, công nghệ, mô hình thanh toán mới; đẩy mạnh hợp tác hiệu quả giữa ngân hàng – các công ty Fintech nhằm mở rộng địa bàn và đối tượng phụ vụ để cung ứng dịch vụ ngân hàng – tài chính tiện ích, phù hợp nhu cầu, chi phí hợp lý tới khách hàng, góp phần tích cực phổ cập dịch vụ ngân hàng-tài chính tới người dân ở khu vực nông thôn.
Cùng với đó, NHNN cũng chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp lý về an ninh, an toàn, bảo mật, bảo vệ người tiêu dùng trong thanh toán điện tử, thanh toán di động.
Hoàn thiện quy trình xử lý giao dịch của ngân hàng theo hướng số hóa, tự động hóa, an toàn và thuận tiện; kết hợp giữa ngân hàng và viễn thông phát triển, ứng dụng các phương tiện và mô hình thanh toán/chuyển tiền hiện đại, dễ sử dụng và phù hợp với điều kiện ở nông thôn (thanh toán qua điện thoại di động, thiết bị kỹ thuật số… ) nhằm thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt ở những khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, hải đảo và cả đối với những đối tượng chưa có tài khoản ngân hàng, trên cơ sở sử dụng mạng lưới sẵn có của các tổ chức tín dụng, mạng lưới bưu điện, mạng lưới của các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, một số tổ chức không phải ngân hàng khác,
Ngoài ra, xây dựng và triển khai Chiến lược Tài chính toàn diện Quốc gia nhằm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, tăng cường đổi mới sáng tạo trong thiết kế và phân phối sản phẩm theo hướng đơn giản, tiện lợi, dễ sử dụng, giảm chi phí, phù hợp với nhu cầu và khả năng chi trả của người dân và doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ, dân cư nông thôn, vùng sâu, vùng xa, người có thu nhập thấp, người yếu thế.
Với những khó khăn liên quan đến nhiều bên, các bên phải phối hợp với nhau để giải quyết, nếu chỉ có một bên thì rất khó. Quan trọng nhất là chủ trương của Chính phủ, các bộ, ngành cần được phối hợp chặt chẽ, đồng thời tăng cường phối hợp với truyền thông, doanh nghiệp…/.
Theo Dangcongsan
Ý kiến ()