Thứ 2, 25/11/2024 01:21 [(GMT +7)]
Nhà bác học lừng danh mang trái tim Hà Nội
Thứ 5, 26/08/2010 | 08:58:00 [(GMT +7)] A A
Đâu phải tôi cố ý lạm dụng ngôn từ theo lối nói “đại ngôn”. Nhà bác học lừng danh, đấy chính là cụm từ mà giới báo chí – truyền thông thế giới luôn dùng để nói về Ngô Bảo Châu trong những ngày tháng tám sôi động này. Và dùng từ như vậy là đúng mực, không thái quá, nhưng cũng không bất cập.
Ta hãy nghe GS G.Lô-mông, Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Pháp, người đã từng hướng dẫn Ngô Bảo Châu viết luận án tiến sĩ, trả lời phỏng vấn của báo chí tại Ấn Độ:
“Ngô Bảo Châu hiện đã đạt được đỉnh cao trong nửa đầu sự nghiệp của anh ấy. Anh ấy hiện là người dẫn đầu, nhà lãnh đạo toàn thế giới trong một lĩnh vực rộng lớn của toán học”.
Hà Nội một thời đạn bom…
Đã 20 năm sống và làm việc ở nước ngoài, nhưng người con Thăng Long – Hà Nội ấy, sinh ra dưới mưa bom trải thảm của máy bay chiến lược B-52, một học sinh chuyên toán cũ của Trường Trưng Vương và Trường đại học Tổng hợp Hà Nội, vẫn giữ bên mình tấm hộ chiếu phổ thông nước CHXHCN Việt Nam, tấm hộ chiếu bìa mầu xanh lá mạ.
Ngô Bảo Châu sinh năm 1972 tại Hà Nội, dưới mưa bom trải thảm của pháo đài bay B-52. Đầu năm ấy, cha anh, Tiến sĩ cơ học Ngô Huy Cẩn, chấp hành lệnh động viên cục bộ, lên đường ra tuyến lửa Quảng Trị. Ngày ấy mức lương tiến sĩ dù còn ít ỏi, nhưng cũng được 73 đồng. Chứ sau khi tòng quân, làm “lính năm đồng”, nhận tiền phụ cấp tiêu vặt của chàng binh nhì mỗi tháng 5 đồng bạc ngân hàng, thì chẳng còn dành dụm được gì để gửi về giúp vợ đang “vượt cạn” ở nơi sơ tán!
Chẳng bao lâu sau, hòa bình được lập lại trên miền bắc. Nhưng vẫn còn đó sổ gạo, phiếu thịt, tem sữa, tem đường. Mẹ anh, Trần Lưu Vân Hiền, vất vả nuôi anh trong ngặt nghèo túng thiếu. Những nhọc nhằn vất vả của mẹ, cha khiến Châu suốt đời nuôi chí phải học chăm, học giỏi, không chịu thua kém bất cứ ai ở bất cứ nước nào. Nỗi vất vả trong thời thơ ấu và niên thiếu đôi khi lại là “ngọn lửa thử vàng”, tôi luyện con người trở nên cứng cáp hơn… Ngược lại, cuộc sống trong “nuông chiều nhung lụa” lắm lúc lại dễ sinh ra những chàng “công tử bột”, những cô “tiểu thư chậu cảnh” chỉ quen ỷ lại, dựa dẫm, không chịu đựng nổi những thử thách, khó khăn ở đời…
Đã nhiều năm xa nước, nhưng anh Châu vẫn luôn nhớ về những hàng me xanh, sấu biếc, phượng đỏ, hòe vàng, bằng lăng tím nơi phố hè Hà Nội, nhớ về mái trường xưa. Trường cấp II Trưng Vương thân yêu của anh nhỏ bé nép mình nơi góc phố Hàng Bài – Lý Thường Kiệt đông nghịt xe đạp những buổi tan trường. Rồi Khối trung học phổ thông chuyên toán – tin lụp xụp ở Trường đại học Tổng hợp Hà Nội bên đường Nguyễn Trãi, luôn nghe văng vẳng leng keng tiếng chuông xe điện đổ hồi trên tuyến Bờ Hồ – Ngã Tư Sở – Hà Đông.
Anh luôn tỏ lòng biết ơn các thầy giáo dạy toán đã truyền cho anh niềm say mê toán học như các thầy Phạm Ngọc Hùng, Tôn Thân, Lê Tuấn Hoa, Vũ Đình Hòa, Đỗ Đức Thái, Phạm Hùng… Anh cũng biết ơn các cô giáo dạy văn như cô Phương, cô Trịnh Bích Ba, cô Đặng Thanh Hoa… đã dạy cho anh “môn học khó nhất là môn học… làm người”. Là học sinh chuyên toán nhưng anh rất yêu văn học, âm nhạc. Thú vui ngoài toán của anh Châu là đọc sách.
Anh vui sướng khi biết tin Khối chuyên toán của anh ngày nào, nay đã được Nhà nước ta phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới. Ở đó có những thầy, cô sống trong sạch, mẫu mực và tận tụy hết mình, những con người của một thời “mỗi tấc ngày đêm bỏng giẫy/ mỗi lòng người như nước suối trong”. Vẻ đẹp tinh thần thanh khiết, ấy là điều hấp dẫn anh nhất…
Vượt qua bao nỗi phiền hà…
“Uống nước nhớ nguồn” chính là lý do sâu kín khiến anh luôn giữ lại bên mình cuốn hộ chiếu bìa xanh mầu lá mạ, cuốn hộ chiếu phổ thông mang quốc huy nước CHXHCN Việt Nam, cho dù nó có gây cho anh bao chuyện phiền hà! Là một công dân bình thường, anh không làm gì có hộ chiếu công vụ hay hộ chiếu ngoại giao.
Nhớ lại chuyện sáu năm về trước.
Từ ngày 13 đến 16-10-2004, GS Ngô Bảo Châu và GS G.Lô-mông dự Hội nghị các dạng tự đẳng cấu và công thức vết tại Viện Fields ở Ca-na-đa. Anh Châu được mời thay mặt hai tác giả trình bày báo cáo tại phiên họp toàn thể – một vinh dự lớn – về công trình dày 100 trang khổ A4 mà anh và G.Lô-mông vừa công bố trước đó bằng tiếng Pháp trên in-tơ-nét: Bổ đề cơ bản cho các nhóm unita. Công thức vết (trace formula) là một trong những kỹ thuật quan trọng nhất để “công phá” nhiều giả thuyết chính trong Chương trình Langlands (Langlands Program), một lược đồ toán học được nhiều bộ óc lớn trên thế giới dồn sức thực hiện từng bước, do R.Lang-lan ở Viện Nghiên cứu tiên tiến Prin-xe-tơn (Mỹ) đưa ra. L.La-pho-guy, một người cùng nhóm nghiên cứu với Ngô Bảo Châu, thu được nhiều kết quả nổi bật trong việc sử dụng công thức vết, nhờ vậy, được tặng Giải thưởng Nghiên cứu Clay ở Cam-bri-giơ (Mỹ) năm 2000 và, sau đó, nhận Huy chương Fields năm 2002 tại Đại hội Toán học thế giới ở Bắc Kinh (Trung Quốc). Như nhiều người đã biết, không có Giải thưởng Nô-ben (Nobel Prize) dành cho toán học (do di chúc của A.Nô-ben không ghi điều ấy, theo đúng luật của một nhà nước pháp quyền, phải thực hiện). Vì thế, giới toán học thế giới mới phải lập ra từ năm 1936 một giải thưởng khác mang lại vinh dự tương đương, dành riêng cho ngành toán, mang tên nhà toán học Ca-na-đa gọi là Huy chương Fields (Fields Medal) để tặng cho những nhà toán học kiệt xuất dưới 40 tuổi.
L.La-pho-guy, nhà toán học được tặng Huy chương Fields, là một người bạn rất thân của Ngô Bảo Châu, đã từng cùng anh Châu dạo khắp phố hè Hà Nội, đi thăm nhiều nơi ở Việt Nam và trú lại nhiều ngày hè trong ngôi nhà xuềnh xoàng của bố mẹ anh Châu dạo còn ở khu Mai Động (Hà Nội).
Những kết quả của V.Đrin-phên và L.La-pho-guy tiến tới thiết lập cái mà ngày nay gọi là bổ đề cơ bản (fundamental lemma), trở ngại chính mà nếu giải quyết được – dù chỉ ở một số trường hợp đặc biệt – cũng có thể dẫn đến những kết quả đột phá trong lý thuyết các dạng tự đẳng cấu (theory of automorphic forms). Bổ đề cơ bản là vấn đề mấu chốt trong Chương trình Langlands. Chương trình này có mục đích tầm xa là thống nhất lý thuyết số, hình học đại số và lý thuyết biểu diễn. Công trình của Ngô Bảo Châu và G.Lô-mông giải quyết được một phần vấn đề mấu chốt đó, cho nên, ngay lập tức, được giới toán học thế giới đặc biệt chú ý. Chính A.Uyn, người đã chứng minh được Định lý cuối cùng của Phéc-ma, và một số nhà toán học được tặng Huy chương Fields đã đề nghị Viện Toán học Clay tặng G.Lô-mông và Ngô Bảo Châu Giải thưởng Nghiên cứu Clay (Clay Research Award).
Anh Châu nhận được thư điện tử của ông G.Can-xơn, Chủ tịch Viện Toán học Clay, mời đến Cam-bri-giơ dự lễ trao giải thưởng vào ngày 5-11-2004. Thời gian quá gấp!
Sau khi kết thúc hội nghị ở Viện Fields, anh Châu trở về vùng Ple-dô, xanh ngắt những đồi thông, mênh mông những cánh đồng đại mạch ở ngoại thành Pa-ri, nơi anh sống cùng vợ – chị Nguyễn Bảo Thanh, người bạn gái cùng lớp từ thời còn học cấp II chuyên toán Trưng Vương – và ba cô con gái nhỏ. Hộ chiếu sắp hết hạn. Anh phải đến ngay Đại sứ quán Việt Nam tại Pa-ri để xin gia hạn, điều này không khó. Nhưng rồi, sau đó, liệu có còn đủ thời gian để xin thị thực nhập cảnh vào Mỹ không? Mấy năm gần đây, do quá lo sợ khủng bố, việc xét cấp thị thực cho người dân các nước Á, Phi mang hộ chiếu phổ thông vào Mỹ thường kéo dài cả tháng. Anh Châu sang Pháp học từ năm 1990, không phải do tiền Nhà nước ta cấp, không bị ràng buộc bởi lời cam kết phải trở về nước phục vụ. Sống và làm việc tại Pa-ri đã gần 15 năm, thế mà, do luôn luôn gắn bó với quê hương, anh vẫn giữ quốc tịch Việt Nam, cho dù điều ấy lắm khi gây rắc rối cho anh, chẳng hạn trong việc xin thị thực vào Mỹ. Anh định nhờ G.Lô-mông thay mặt cho cả hai người sang Cam-bri-giơ nhận Giải thưởng Clay. Bởi vì, G.Lô-mông mang hộ chiếu Pháp, lúc bấy giờ, sang Mỹ không cần thị thực! Đang gần như hết hy vọng, bỗng anh nhận được tin: Viện Toán học Clay đã nhờ Thượng nghị sĩ E.Ken-nơ-đi can thiệp, gọi điện thẳng từ Bô-xtơn sang Pa-ri cho Đại sứ quán Mỹ. Thế là, chỉ mấy tiếng đồng hồ sau, anh nhận được thị thực nhập cảnh. Nếu không, chắc anh đã không thể đến Bô-xtơn nhận Giải thưởng Clay.
Mặc dù gặp nhiều trở ngại trong giao lưu quốc tế, cho đến nay, người con của Thăng Long – Hà Nội ấy vẫn giữ quốc tịch CHXHCN Việt Nam và, mỗi năm, vẫn về nước vài ba tháng, làm việc tại Viện Toán học, với tư cách giáo sư kiêm chức, để giúp đỡ các bạn trẻ trong nước bằng cách đọc bài giảng chuyên đề hay hướng dẫn nghiên cứu sinh.
Gần đây, do Nhà nước ta cho phép một số công dân có thể giữ hai quốc tịch, nên từ đầu năm 2010, anh Châu mới lấy thêm quốc tịch Pháp để tiện cho việc đi lại, giao lưu quốc tế.
“Đơn thương độc mã” giải quyết trọn vẹn bài toán hóc búa về Bổ đề cơ bản
Chỉ mấy tháng sau khi G.Lô-mông và Ngô Bảo Châu được tặng Giải thưởng Clay ở Mỹ, GS G.Lô-mông được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Pháp.
Dư luận trong nước có phần băn khoăn: Không rõ trong công trình chung của hai người, phần đóng góp của Ngô Bảo Châu đến đâu? Thật ra, trong “công trình tập thể” đó, anh Châu đã giải quyết được điểm mấu chốt khi về nghỉ hè tại Hà Nội, sau đó, kết hợp với một số kết quả mà G.Lô-mông (thầy anh) đạt được trước đấy, để viết thành một công trình lớn, rồi công bố nhanh trên mạng in-tơ-nét và lập tức gây tiếng vang rộng lớn.
Và rồi, với tư cách Giáo sư Đại học Oóc-xây (Orsay), Ngô Bảo Châu một mình tiếp tục nghiên cứu nhằm giải quyết trọn vẹn Bổ đề cơ bản, theo phỏng đoán của Langlands và Sen-xtát. Công trình mới “sáng chói” của anh một lần nữa gây xôn xao dư luận.
Với kết quả mới, Ngô Bảo Châu được tặng Giải thưởng Oberwolfach Prize – giải thưởng ba năm tặng một lần, cho một hoặc hai nhà toán học đặc biệt xuất sắc dưới 36 tuổi ở châu Âu. Giải thưởng Oberwolfach năm 2007 dành cho môn đại số và lý thuyết số. Và nhà toán học duy nhất được tặng là Ngô Bảo Châu. Tuy là giải thưởng năm 2007, nhưng sang năm 2008, mới làm lễ trao giải tại Đức. Đọc diễn văn ca ngợi (laudatory speech) tại buổi lễ, GS Ra-pô-po đánh giá công trình của nhà toán học mang quốc tịch Việt Nam, làm việc tại Đại học Oóc-xây, là một “thành tựu sáng chói”. Công trình đó được ví như một tòa kiến trúc hoành tráng và hài hòa…
Cũng trong năm 2008, Ngô Bảo Châu nhận được Giải thưởng nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp.
Công trình hoàn chỉnh của Ngô Bảo Châu được các nhà toán học nhiều nước kiểm tra kỹ lưỡng và công nhận vào năm 2009. Chính vì vậy, tạp chí Time (Mỹ) mới xếp công trình của anh vào nhóm 10 khám phá khoa học nổi bật trên thế giới trong năm 2009, bên cạnh những khám phá lớn khác như: tìm thấy người Ác-đi, tổ tiên cổ nhất của loài người sống cách đây 4,4 triệu năm; lập bản đồ chi tiết về bộ gen người; phát hiện nước trên Mặt trăng; Máy gia tốc hát-ron lớn ở Giơ-ne-vơ (Thụy Sĩ) tạo năng lượng kỷ lục; bước đầu thực hiện thành công viễn tải lượng tử (teleportation)… Trong số 10 khám phá khoa học nổi bật nói trên, nếu tìm hiểu kỹ, ta sẽ thấy có tới chín khám phá là công trình tập thể của rất nhiều nhà bác học và kỹ sư, chỉ riêng khám phá của anh Châu là công trình của một cá nhân.
Nghe vẫn còn đó danh tiếng anh, Viện Nghiên cứu tiên tiến Prin-xe-tơn mời sang làm việc dài hạn tại Mỹ. Và rồi, từ đầu tháng 9-2010, anh nhận lời mời của Đại học Chi-ca-gô chuyển đến trường này giảng dạy và nghiên cứu, với mức lương 300.000 USD/năm.
Như vậy là giới toán học các nước phát triển nhất, trên hai bờ Đại Tây Dương, đã nhất trí vinh danh tài năng toán học trẻ Việt Nam Ngô Bảo Châu – người mà thời trung học, đã hai lần đoạt huy chương vàng Ô-lim-pích Toán Quốc tế.
Từ năm 1936 đến nay, trên thế giới mới có 52 nhà toán học được tặng Huy chương Fields. Ngô Bảo Châu là người thứ tư ở châu Á được tặng huy chương này, sau ba nhà toán học Nhật Bản.
Đang tải dữ liệu
Poll
Ý kiến ()