Nguồn sáng soi đường
- Một buổi sáng năm 2017, trong căn phòng tầng trệt của khu chung cư đường Nguyễn Du (thành phố Lạng Sơn), tôi ngồi trò chuyện với ông Hà Văn Thưởng, một thương binh hạng 3/4 do những vết thương chiến đấu trên các chiến trường miền Nam và Lào thời kỳ ông tham gia chống Mỹ (1968- 1975). Ông cũng là một nạn nhân chất độc da cam hạng nặng và còn bị cả bom na-pan đã làm mặt mũi ông nhăn nhúm, nước da xám xỉn… Biết ông là con trai của ông Hà Thái Nam, một cán bộ cách mạng lão thành có nhiều công lao đóng góp với quê hương, đất nước, tôi hỏi chuyện gia đình ông và cuộc đời hoạt động cách mạng của ông Hà Thái Nam. Khi tôi viết những dòng này, ông Thưởng đã mất cách đây hơn 6 năm (năm 2018)...

“…Khi bố tôi còn sống, trong những lần có dịp trò chuyện, ông thường kể cho anh chị em chúng tôi nghe nhiều chuyện về gia đình, về dòng tộc họ Hà chúng tôi và chuyện những ngày ông tham gia hoạt động cách mạng ở trong nước và đi làm cố vấn giúp cách mạng nước Lào anh em…" - Người thương binh bắt đầu câu chuyện.
Bố tôi, khi tham gia cách mạng lấy tên là Hà Thái Nam, nhưng tên khai sinh của ông là Hà Văn Sáy, sinh ngày 19 tháng Giêng năm Ất Sửu (tức ngày 11/2/1925), quê ở bản Nà Pài, xã Chu Túc, châu Điềm He (nay là huyện Văn Quan), Lạng Sơn. Dòng họ Hà vốn là một dòng họ “Phiên thần, Thổ ty” trong “Thất tộc thổ ty Lạng Sơn”, có cụ thủy tổ là Quận công Hà Hạc, người từng có công lớn giúp Lê Lợi đánh thắng giặc Minh xâm lược, lập nên triều Hậu Lê trong lịch sử. Sau khi đánh thắng giặc Minh, cụ được triều đình chọn cử lên cai quản dân binh, trấn giữ vùng biên cương Xứ Lạng ngay từ năm 1434, thời vua Lê Thái Tổ.
Cụ cố nội tôi là ông Hà Văn Thiệu, từng làm quan Tri châu Điềm He, thường gọi là “ông Huyện Hà”. Cụ có nhiều công sức góp phần xây dựng và bảo vệ quê hương Điềm He thời bấy giờ. Cụ bị thực dân Pháp âm mưu, tạo điều kiện cho quân cướp Tàu (Trung Quốc) đánh vào, giết hại ngay tại nhà riêng. Gia đình tôi căm thù giặc Pháp và bọn giặc Tàu (Trung Quốc) không đội trời chung.
Gia đình tôi có bà Hà Thị Mùi (thường gọi “Nàng Mùi”), con gái ông Huyện Hà, là em gái thứ ba của ông nội tôi. Trong lần quân cướp Tàu tràn vào làng bản, bắn chết ông Huyện Hà, bà Mùi đã bị thương nặng vào bả vai. Bà Mùi chính là mẹ thân sinh đồng chí Hoàng Văn Thụ.
Bố tôi sinh ra và lớn lên trong lúc nước nhà đang bị thực dân Pháp đô hộ, cùng với chế độ phong kiến áp bức bóc lột dân ta vô cùng nặng nề, đời sống người dân hết sức cùng cực. Khi đó, những người yêu nước và người dân lao động chỉ ước mong có một cuộc cách mạng nổi lên, đánh đổ chế độ đế quốc phong kiến, giành độc lập, tự do cho đất nước, người dân được sống tự do. Mỗi lần bố tôi gặp bà Mùi thường được bà kể chuyện về ông Hoàng Văn Thụ, lúc đó đã ra đi hoạt động cách mạng giành độc lập cho đất nước. Khi bố tôi còn nhỏ, đang theo học ở trường Ba Xã, (châu Điềm He), được nghe thầy giáo Thắng, Hiệu trưởng của trường nói về tình hình Liên Xô đã đánh thắng mười mấy nước đế quốc bao vây và đang đánh thắng Phát xít Đức Hít Le trong Chiến tranh thế giới thứ II. Bố tôi rất háo hức nghe những chuyện về thời sự chính trị trong nước và thế giới.
Tháng 9/1940, quân Nhật đánh vào Lạng Sơn qua đường Đồng Đăng rồi tiến về Hà Nội. Thực dân Pháp đầu hàng, dâng cả ba nước Đông Dương cho Nhật. Ngày 27/9/1940, cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ. Nhân dân Bắc Sơn dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đứng lên khởi nghĩa, giành chính quyền ở huyện Bắc Sơn. Nhưng sau đó, bọn đế quốc Nhật bắt tay với thực dân Pháp, quân Pháp quay lại đàn áp cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn vô cùng dã man. Nhân dân các nơi trong tỉnh Lạng Sơn và cả nước càng ngột ngạt sống trong cảnh “một cổ hai tròng”. Ai cũng muốn đứng lên chống giặc. Dòng họ Hà nhà tôi vốn đã có truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm, trước tình hình mới, đã mấy lần bố tôi nói với bà cô (mẹ đồng chí Hoàng Văn Thụ):
- Cô ơi! Cô dẫn cháu đi gặp chú Thụ để cháu xin được theo chú làm cách mạng!
Bà Mùi nhìn bố tôi mỉm cười và nói:
- Chú Thụ nay đã đi xa rồi, muốn tìm gặp rất khó!
Lúc đó là vào khoảng tháng Giêng năm 1941, bố tôi vừa tròn mười sáu tuổi, rất muốn ra đi làm cách mạng để đánh Pháp, đuổi Nhật nhưng không biết phải đi đâu để tìm được cách mạng. Đã mấy lần bố tôi bàn với một số anh em trong thôn bản tìm cách tự tổ chức đánh Pháp. Nhưng mọi người bàn bạc, suy nghĩ mãi vẫn không biết phải làm cách nào để đánh thắng được quân Pháp. Lúc bấy giờ người dân quê tôi chưa có ánh sáng của Đảng lãnh đạo đưa đến, nên những người dù rất có tinh thần yêu nước nhưng cũng chưa biết đường đi, không biết phải làm thế nào để có thể đánh thắng quân xâm lược và bọn tay sai của chúng.
Sau này, khi đã tham gia cách mạng, làm đến Trưởng Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Lạng Sơn, được công tác cùng với đồng chí Hoàng Văn Kiểu, Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn lúc bấy giờ, bố tôi được ông Hoàng Văn Kiểu kể lại. Thời kỳ đó, chính ông Hoàng Văn Kiểu và một số cán bộ lãnh đạo của tỉnh ta cũng trong tình trạng rất muốn đứng lên đánh thực dân Pháp và bọn tay sai, nhưng không biết phải làm gì và làm thế nào để đánh được chúng.

Ông Hoàng Văn Kiểu kể lại: Năm 1938, khi ông 17 tuổi, đã học xong chương trình trường làng, được gia đình cho ra Na Sầm học ở trường thị trấn. Học cùng lớp với Hoàng Văn Kiểu còn có anh Thiện người cùng quê Hội Hoan. Tại đây các ông được học thầy giáo Đàm Ngọc Hồ, là người Cao Bằng đến dậy cả tiếng Việt và tiếng Pháp. Hoàng Văn Kiểu và anh Thiện là học trò lớn tuổi trong lớp, nên được thầy giáo Hồ có những buổi nói chuyện riêng với hai người. Nội dung xoay quanh những vấn đề về thời cuộc chính trị. Thầy Hồ nói: Cách mạng Việt Nam phải có tổ chức Mác-xít lãnh đạo. Thầy còn cho biết “Hoàng Văn Thụ, Lương Văn Tri là những người Mác-xít đấy!”. Mấy thầy trò đang hợp ý tâm đầu thì sau đó thầy Hồ bị chính quyền tay sai kiếm cớ gây khó dễ, có nguy cơ bị cách chức nên thầy đã bỏ trường đi làm thư ký nhà buôn ở mãi bên Tuyên Quang.
Khi thầy giáo Hồ chuyển đi nơi khác, Hoàng Văn Kiểu cũng thôi học. Trước cuộc sống bị bọn đế quốc phong kiến áp bức, bóc lột, trong tư tưởng Hoàng Văn Kiểu lúc đó nhen nhóm những suy nghĩ là phải theo con đường làm cách mạng cứu dân, cứu nước, nhưng cũng chưa biết phải làm như thế nào, đi từ đâu? Đúng lúc như vậy thì vào tháng 12/1939, Hoàng Văn Kiểu nhận được bức thư của Lương Văn Tri do ông Châu người bản Vay (Bình Gia) đưa cho. Nội dung thư viết ngắn gọn: “Thời cơ phục quốc đã tới, dịp nào thuận lợi mong anh sang Bắc Sơn đến Hữu Vĩnh gặp anh Tạo với anh Hà Khai Lạc!” Hoàng Văn Kiểu và Lương Văn Tri chưa hề quen biết nhau, ông Kiểu cũng không hiểu ai đã giới thiệu để Lương Văn Tri biết mà viết thư cho ông. Tháng 4/1940, nhân ngày hội ở Bắc Sơn, ông Kiểu rủ hai anh bạn cùng đi chơi hội, riêng ông Kiểu có ý định tìm người mà anh Tri đã nói trong thư. Tuy nhiên, dù đã cố tìm nhưng ông Kiểu không gặp được những người trong thư anh Tri đã dặn.
Sau lần đi Bắc Sơn không đạt kết quả và sau những biến động của thời cuộc càng thôi thúc Hoàng Văn Kiểu phải sớm tìm cách liên hệ với tổ chức cách mạng chân chính – đó là tổ chức do những người Mác-xít lãnh đạo.
Tháng 9/1940, ở xã Hội Hoan quê hương Hoàng Văn Kiểu xảy ra sự kiện quan trọng: Nhật đánh vào đồn binh Pháp ở Na Sầm, quân Pháp chống cự yếu ớt và nhanh chóng tan rã. Một toán lính Pháp khoảng một tiểu đội chạy vào Hội Hoan để theo đường đi Văn Mịch sang Bình Gia. Khi toán lính Pháp đến Bản Béng đã mệt và đói, chúng dừng lại tìm ăn. Anh em nơi đây đã nổi dậy cướp vũ khí của bọn lính Pháp, tước được 5 khẩu súng, trong đó có 1 khẩu trung liên và một số đạn. Tốp lính sợ hãi, bỏ chạy, không dám chống cự. Cũng dịp này, nung nấu lòng căm thù giặc Pháp và bọn tay sai từ lâu, một số thanh niên ở Hội Hoan đã đón đường bắn chết tên tri châu Thoát Lãng Nguyễn Cư Khanh gian ác tại Toong Chinh.
Lúc này, Tây thua, Nhật chưa tới, bộ máy thống trị tại địa phương bị tan rã. Trước tình hình mới, cuối tháng 9/1940, tại xã Hội Hoan đã tổ chức một cuộc họp rộng rãi gồm người dân hai xã Hội Hoan và Nam La để lập nên Hội đồng tự quản do ông Đường Mỹ Tân đứng đầu. Hoàng Văn Kiểu được cử làm thư ký giúp việc cho ông Tân. Ông Hoàng Văn Loòng, nguyên xã đoàn được phân công tổ chức đội vũ trang… Hội đồng tự quản đã đứng ra dàn xếp, giải quyết một số vụ kiện tụng của dân trong xã. Đội vũ trang đã tập hợp được một số lính dõng cũ cùng một số thanh niên hăng hái có trang bị vũ khí, đã tổ chức đào hào ở kéo Toong Chinh đề phòng quân Pháp từ Bình Gia đánh sang. Vũ khí lúc đó đã có tới 50 khẩu súng các loại chủ yếu do dân tự mua sắm.
Nhân dân được sống trong không khí dân làm chủ là việc mới mẻ, rất hào hứng, phấn chấn. Tuy nhiên, những người đứng đầu Hội đồng tự quản đều là do tình thế khách quan đòi hỏi phải đứng ra đảm đương công việc. Do hạn chế về nhiều mặt, nên hoạt động cũng chỉ xoay quanh những việc trong làng xã thường ngày. Sự hiểu biết về cách mạng rất ít ỏi, chưa liên hệ đối với cách mạng ở Bắc Sơn. Vì vậy, chỉ một thời gian ngắn, sau khi có sự thỏa hiệp giữa Nhật và Pháp, quân Nhật giao lại cho Pháp tiếp tục cai trị, cách mạng Bắc Sơn đã bị Pháp khủng bố rất dã man. Ở Hội Hoan, Nam La nhiều người đã dao động ra tự thú… Phong trào tự quản ở đây tan rã.
Sau vụ này, bọn Pháp đã tổ chức bắt bớ những người có hoạt động chống Pháp. Tòa án quân sự của Pháp đưa ra xét xử, trong đó có một số người phải lĩnh án nặng như: Mông Văn Quang, Hoàng Văn Kiểu bị xử tử hình vắng mặt; Hoàng Văn Thiện tử hình, sau được giảm xuống tù chung thân, đày biệt xứ ở Cam-pu-chia; Mông Thịnh Tân, Mông Thanh Hiền bị hai mươi năm tù khổ sai,…
Từ ngày Pháp trở lại bắt bớ và khôi phục lại bộ máy chức dịch ở địa phương, Hoàng Văn Kiểu và một số anh em phải lẩn trốn. Trước thực trạng lúc này, Hoàng Văn Kiểu càng thấy rõ: chỉ có làm cách mạng, có tổ chức, có đường lối chính trị đúng đắn của những người Mác-xít mới có thể thành công. Vì vậy Hoàng Văn Kiểu nung nấu ý chí quyết tâm phải đi tìm đường làm cách mạng.
Sau khi đã vận động được anh Hoàng Văn Cường cùng đi, ngày 13/7 âm lịch năm 1941, Hoàng Văn Kiểu chia tay gia đình lên đường đi tìm cách mạng. Lúc này hướng Bắc Sơn đã bị địch khủng bố, khó liên hệ. Hoàng Văn Kiểu cũng mới biết tin ở vùng Biên giới Trung Quốc có người của cách mạng Việt Nam hoạt động, nên các anh chọn hướng đi là Trung Quốc. Tuy chưa biết chính xác là phải tìm ai và cụ thể ở chỗ nào, song các anh cũng cứ ra đi để tìm!
Hai người vượt sông, theo đường ra Na Hình. Đến Na Hình mới biết ở đây cũng có một nhóm anh em hoạt động nhằm gây phong trào chống Pháp nhưng đã bị Pháp khủng bố nên phải tạm lánh sang đất Trung Quốc. Sau đó các anh sang Bản Quyến (Trung Quốc). Tại đây Hoàng Văn Kiểu gặp và kết thân với Bề Chấn Hưng (lúc đó tên là Dáu Khen), cùng có chí hướng tìm đường cứu nước, tính tình rất hợp nhau. Hoàng Văn Kiểu còn làm quen với Lâm Phủ Thình, người Trung Quốc, quê ở Hạ Đống, huyện Long Châu. Ông Kiểu nói mục đích đến đây là để liên lạc với anh em Việt Nam làm cách mạng đang ở Trung Quốc. Người mà ông Kiểu cần tìm là Lương Văn Tri, vì khi đó, ông Kiểu cũng chỉ mới biết có Lương Văn Tri thôi. Ông Lâm Phủ Thình nói là đã từng hoạt động cách mạng ở Trung Quốc, có quen biết các anh Hoàng Văn Thụ và Lương Văn Tri, “Đó là những người Cộng sản đấy!” Hoàng Văn Kiểu rất vui mừng, nhờ Lâm Phủ Thình bắt liên lạc giúp.
Đến tháng 11/1941 thì có ông Bùi Ngọc Thành là trạm liên lạc của Đảng ta ở Long Châu và anh Lê Thiết Hùng đến bản Quyến đón Hoàng Văn Kiểu và Bế Chấn Hưng đi Long Châu. Anh Lê Thiết Hùng nói sẽ thu xếp cho hai anh đi học quân sự ở Tĩnh Tây (Trung Quốc).
Khi tới Long Châu thì cũng vừa lúc Hoàng Văn Hoan ở Tĩnh Tây đến đây. Hoàng Văn Hoan cho biết Trương Phát Khuê đã trở mặt, cơ quan tổng bộ Việt Minh đóng ở Tĩnh Tây đã phải đình chỉ hoạt động. Các anh Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng), Dương Hoài Nam (Võ Nguyên Giáp) đã vào Cao Bằng hoạt động, ta không thể đi Tĩnh Tây nữa. Các anh bàn mở lớp huấn luyện chính trị cho anh em tại Long Châu. Lớp học này do Lê Thiết Hùng và Hoàng Văn Hoan hướng dẫn.
Chương trình học gồm: Tình hình quốc tế; tình hình cách mạng Việt Nam; chương trình hoạt động của Việt Minh (gồm 10 điểm) và phương pháp công tác cách mạng... Thời gian học chỉ có bảy, tám ngày, tuy ngắn ngủi nhưng đã giúp các ông Hoàng Văn Kiểu, Bế Chấn Hưng và những người dự lớp học lúc đó mở mang sự hiểu biết rất nhiều điều.
Các học viên hiểu rõ được phương hướng cách mạng Việt Nam sẽ đi tới và những chủ trương, bước đi, phương pháp làm cách mạng trong thời gian trước mắt. Đối với Hoàng Văn Kiểu và Bế Chấn Hưng thì như người đang mò mẫm đi trong đêm tối nay có ánh sáng đã thấy rõ đường đi, biết rõ phải làm thế nào để thực hiện được ước mơ lý tưởng nung nấu của mình là đánh Pháp, đuổi Nhật, giải phóng cho dân ta khỏi áp bức, bóc lột.
Điều quan trọng hơn nữa là các anh đã tiếp cận được sự lãnh đạo của Đảng, tạo được lòng tin vào tiền đồ cách mạng Việt Nam và hiểu sự nghiệp cách mạng còn phải trải qua nhiều hy sinh gian khổ, phải kiên trì tiến hành lâu dài mới tới được thành công… Sau lớp học, các anh được giao nhiệm vụ trở về nước hoạt động gây cơ sở cách mạng. Thực hiện theo phương pháp công tác cách mạng đã được học, Hoàng Văn Kiểu, Bế Chấn Hưng trở về nước đã tích cực hoạt động, góp phần vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của tỉnh và cả nước. Sau này, các ông Hoàng Văn Kiểu và Bế Chấn Hưng đã trở thành Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh Lạng Sơn và còn giữ nhiều cương vị lãnh đạo quan trọng khác.
Trở lại việc hoạt động cách mạng của bố tôi, sau khi Nhật đảo chính Pháp, (9/3/1945) phong trào cách mạng của Nhân dân ngày càng dâng cao. Vào tháng 4/1945, bố tôi được tin Việt Minh đã ra đến bản Coóng xã Thu Cúc (nay là xã Xuân Mai), huyện Điềm He. Ông nhận được thư của ông Lê Huyền Trang, cán bộ Việt Minh gửi đến. Bố tôi và ông Nguyễn Long đã sang gặp, nhận chỉ thị của Việt Minh để về xã Chu Túc tuyên truyền, tổ chức thành lập các đoàn thể quần chúng cách mạng như Hội Thanh niên cứu quốc, Hội Phụ nữ Cứu quốc, Hội Nông dân cứu quốc, Đội tự vệ bí mật,...
Phong trào được phát động sâu rộng trong toàn dân, khí thế cách mạng toàn xã, toàn huyện lên cao. Lúc này chính quyền cũ, tay sai của giặc Pháp vẫn còn đầy đủ từ quan tri châu, đến các chánh tổng, lý trưởng và các châu đoàn, tổng đoàn, xã đoàn trong toàn huyện với cả đội ngũ lính dõng, có vũ khí, trang bị đầy đủ, nhưng tinh thần bọn chúng thì đã hoang mang đến cực độ. Trong bối cảnh ấy, bố tôi được ánh sáng cách mạng chỉ đường đã rất tích cực hoạt động, góp phần vào thắng lợi chung của châu Điềm He, nhanh chóng xoá bỏ chính quyền cũ, thành lập chính quyền cách mạng lâm thời.
Khi đó bố tôi được cử làm Bí thư thanh niên, Phó chủ nhiệm Việt Minh kiêm Thư ký Ban Việt Minh xã Chu Túc. Đến ngày 24, 25/8/1945, bố tôi dẫn đầu một đội tự vệ và thanh niên tổng Chu Túc cùng các tổng trong huyện Điềm He hợp lực với bộ đội giải phóng, tiến ra thị xã Lạng Sơn, chiếm các vị trí đóng quân của địch, bao vây dinh tỉnh trưởng, buộc tỉnh trưởng Linh Quang Vọng phải đầu hàng. Lực lượng cách mạng Lạng Sơn đã giành chính quyền cấp tỉnh thắng lợi!
Giữa tháng 9/1945, khi bầu chính quyền cấp tổng, bố tôi được bầu làm Bí thư Cứu quốc và Uỷ viên thư ký Ban Việt Minh tổng Chu Túc, châu Điềm He. Tháng 11/1945 khi bầu chính quyền cấp huyện, bố tôi được bầu là Bí thư thanh niên cứu quốc châu Điềm He và Uỷ viên Thư ký ban Việt Minh châu Điềm He. Cuối 1946 là Chủ nhiệm Việt Minh huyện Điềm He.
Những năm sau đó, bố tôi đã vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ, tích cực hoạt động hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ do tổ chức cách mạng giao cho. Đến ngày 9/1/1947 bố tôi được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (tức Đảng Lao động Việt Nam sau đó và là Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay). Được đứng trong hàng ngũ của Đảng, bố tôi càng hăng say công tác. Cuối tháng 6/1947 tại cuộc họp toàn Đảng bộ đầu tiên của huyện Điềm He, bố tôi được bầu làm Bí thư Huyện uỷ lâm thời đầu tiên của huyện Điềm He kiêm Chủ nhiệm Ban Việt Minh Điềm He.
Tháng 8/1947 bố tôi được Tỉnh ủy cử đi học lớp bồi dưỡng Bí thư Huyện ủy do Khu ủy 12 mở tại huyện Hiệp Hòa tỉnh Bắc Giang. Sau khi học về, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lạng Sơn có quyết định cử bố tôi sang làm Bí thư Huyện ủy Bắc Sơn từ tháng 9/1947. Nhiệm vụ chính của huyện Bắc Sơn lúc này là xây dựng và củng cố căn cứ địa cách mạng Bắc Sơn, chuẩn bị sẵn sàng cho kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp. Trung ương cũng rất quan tâm đến việc xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn, đã cử những cán bộ có năng lực về tăng cường cho các tổ chức của huyện.
Tết Âm lịch Mậu Tý (1948) đến, các cán bộ là người Bắc Sơn được cho về ăn tết với gia đình. Bố tôi là Bí thư Huyện ủy phải thường trực, ăn tết ở cơ quan. Lúc này, cả cơ quan chỉ còn ba người ở lại trực tết là bố tôi, Bí thư Huyện ủy, chị Anh Thơ, nữ nhà thơ nổi tiếng được Trung ương tăng cường về làm Bí thư Phụ nữ huyện và đồng chí Tuấn, cũng do Trung ương tăng cường về làm Bí thư Thanh niên. Hai người đều quê dưới xuôi nên cũng không về ăn tết được. Đến tối 30 tết thì lại có thêm hai đồng chí cán bộ do Ban Bí Thư Trung ương phái về huyện Bắc Sơn xây dựng căn cứ địa cho Trung ương.
Đến Bắc Sơn, bố tôi được biết chính chú Hoàng Văn Thụ đã từng đến đây tuyên truyền vận động cách mạng, ngày 25/9/1936, tại thôn Mỏ Tát, xã Vũ Lăng đã tổ chức kết nạp Đảng viên và thành lập chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Bắc Sơn. Sau đó, những người đảng viên ấy đã lãnh đạo Nhân dân địa phương tiến hành cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn nổi tiếng cả nước. Bố tôi càng phấn khởi và tự hào về truyền thống cách mạng của gia đình, dòng họ, quyết tâm học tập, noi gương và tiếp bước con đường cách mạng mà chú Hoàng Văn Thụ đã đi.
Thời gian công tác tại Bắc Sơn, bố tôi đã khắc phục nhiều khó khăn để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Có thời gian bố tôi bị ốm, ghẻ lở khắp người, đến nỗi không ngồi được, chỉ đứng và nằm làm việc. Khi nói thì phải đứng, khi viết thì phải nằm. Công việc khẩn trương, không có ai thay để nghỉ… nhưng vẫn quyết tâm vượt qua.
Những năm sau này, do yêu cầu công tác, bố tôi được tổ chức Đảng, lãnh đạo tỉnh giao đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ như: Năm 1956 làm Trưởng Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Lạng Sơn; cuối 1năm 959 đến tháng 4/1962, Đại hội Đảng bộ tỉnh đã bầu ông vào Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, là Trưởng ban Công tác nông thôn và Trưởng ban Dân vận Tỉnh uỷ kiêm Trưởng ty Nông nghiệp tỉnh...
Đến đầu những năm 1960, trước tình hình cách mạng của ba nước Đông Dương trong giai đoạn mới, theo yêu cầu của Ban chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Đảng ta đã cử đoàn cố vấn, chuyên gia sang giúp Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Bố tôi được Trung ương chọn, cử sang Lào làm cố vấn chuyên gia chính trị giúp Tỉnh uỷ miền Đông Nam Lào, (nay là tỉnh Xê Coong) suốt từ tháng 5/1962 đến giữa năm 1975 mới trở về địa phương.
Mặc dù phải chịu đựng vô vàn khó khăn, gian khổ, mấy lần thoát chết trong gang tấc, nhưng bố tôi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Ông đã được Trung ương Mặt trận Lào yêu nước tặng thưởng Huân chương Tự do hạng Nhất và được Đảng, Nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Độc lập hạng Ba và nhiều bằng khen, giấy khen khác. Đó là sự ghi nhận và đánh giá cao của Đáng, Nhà nước ta và nước Lào anh em đối với công lao của bố tôi trong suốt cuộc đời tham gia cách mạng.
Mỗi lần trò chuyện với chúng tôi, ông thường nhắc nhở chúng tôi, nếu không có ánh sáng dẫn lối, chỉ đường, sự lãnh đạo của Đảng ta và cả sự hy sinh anh dũng của những người cộng sản như chú Hoàng Văn Thụ của gia đình ta, và nhiều chiến sĩ cách mạng khác thì đất nước ta, Nhân dân ta trong đó có cuộc đời của bố và cả gia đình ta sẽ không bao giờ có được ấm no, hạnh phúc, vẻ vang như ngày nay.

Ý kiến ()