Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8 năm 2011
Trong các ngày 30, 31 tháng 8 và 01 tháng 9 năm 2011, Chính phủ họp phiên thường kỳ đầu tiên của nhiệm kỳ 2011 - 2016, thảo luận và quyết nghị những vấn đề sau:1. Các báo cáo: Tình hình kinh tế - xã hội tháng 8 và 8 tháng năm 2011, tình hình kinh tế - xã hội năm 2011 và dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012; tình hình thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP về cắt giảm, điều chuyển vốn đầu tư Nhà nước; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015; đánh giá thực hiện ngân sách nhà nước năm 2011, dự toán ngân sách nhà nước năm 2012; đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 5 năm 2006 - 2010 và kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 5 năm 2011 - 2015; kết quả thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2006 - 2010, tình hình triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia năm 2011 và đề xuất danh mục các chương trình mục tiêu...
Trong các ngày 30, 31 tháng 8 và 01 tháng 9 năm 2011, Chính phủ họp phiên thường kỳ đầu tiên của nhiệm kỳ 2011 – 2016, thảo luận và quyết nghị những vấn đề sau:
1. Các báo cáo: Tình hình kinh tế – xã hội tháng 8 và 8 tháng năm 2011, tình hình kinh tế – xã hội năm 2011 và dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2012; tình hình thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP về cắt giảm, điều chuyển vốn đầu tư Nhà nước; kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2011 – 2015; đánh giá thực hiện ngân sách nhà nước năm 2011, dự toán ngân sách nhà nước năm 2012; đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch tài chính – ngân sách nhà nước 5 năm 2006 – 2010 và kế hoạch tài chính – ngân sách nhà nước 5 năm 2011 – 2015; kết quả thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2006 – 2010, tình hình triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia năm 2011 và đề xuất danh mục các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2012 – 2015; tình hình thực hiện Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 7 năm 2011, Chương trình công tác của Chính phủ tháng 8 năm 2011; công tác cải cách hành chính tháng 8 năm 2011; công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và đấu tranh phòng, chống tham nhũng tháng 8 năm 2011 do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ trưởng Bộ Tài chính; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ; Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Tổng Thanh tra Chính phủ trình.
a) Về tình hình kinh tế – xã hội 8 tháng và cả năm 2011:
Chính phủ thống nhất nhận định: Tình hình kinh tế – xã hội 8 tháng và cả năm 2011 tiếp tục chuyển biến tích cực, nhiều chỉ tiêu kinh tế – xã hội dự báo đạt và vượt kế hoạch. Lạm phát được kiềm chế và giảm dần theo từng tháng, mức tăng chỉ số giá tiêu dùng tháng 8 là 0,93%, thấp nhất kể từ đầu năm; kim ngạch xuất khẩu tăng cao so với chỉ tiêu kế hoạch, nhập siêu giảm mạnh; thu ngân sách đạt khá, bội chi ngân sách giảm; thị trường ngoại hối từng bước ổn định, dự trữ ngoại tệ tăng. Tăng trưởng GDP năm 2011 dự kiến đạt khoảng 6%; sản xuất công nghiệp đạt tốc độ tăng cao; tuy chịu ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn phát triển ổn định, được mùa, được giá; dịch vụ tiếp tục phát triển, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng mạnh. An sinh xã hội được quan tâm, các chính sách xã hội tiếp tục được triển khai tích cực, góp phần giảm bớt khó khăn và từng bước cải thiện đời sống nhân dân; các lĩnh vực giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa, thông tin, thể dục thể thao có tiến bộ; công tác giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo được chú trọng. Cải cách hành chính và đấu tranh phòng, chống tham nhũng tiếp tục được đẩy mạnh. Công tác đối ngoại đạt được nhiều kết quả quan trọng. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; quốc phòng được tăng cường, chủ quyền quốc gia được đặc biệt coi trọng. Những kết quả trên khẳng định các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội theo Kết luận số 02-KL/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 59/2011/QH12 của Quốc hội, Nghị quyết số 02/NQ-CP và Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ là đúng đắn, phù hợp với thực tiễn và đang phát huy tác dụng tích cực.
Bên cạnh đó, tình hình kinh tế – xã hội vẫn còn một số tồn tại: Lạm phát tuy giảm nhưng vẫn ở mức cao; mặt bằng lãi suất cao ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh; thu hút đầu tư giảm; thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản giảm sút; tỷ lệ hộ nghèo giảm chậm hơn kế hoạch đề ra; đời sống nhân dân, nhất là người nghèo, công nhân ở các khu công nghiệp, vùng miền núi, dân tộc thiểu số… còn nhiều khó khăn; tệ nạn xã hội, tai nạn và ùn tắc giao thông còn nhiều bức xúc, nhất là còn xảy ra nhiều vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng.
Để đạt được các chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội cả năm, trong những tháng còn lại, Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan, địa phương tiếp tục bám sát và triển khai quyết liệt, đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp đề ra trong Kết luận số 02-KL/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 59/2011/QH12 của Quốc hội, Nghị quyết số 02/NQ-CP, nhất là Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ, trong đó tập trung vào các nhiệm vụ sau đây:
– Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, hiệu quả, phù hợp theo tín hiệu thị trường; giảm dần lãi suất tín dụng cùng với xu hướng giảm tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng, điều hành tăng trưởng dư nợ tín dụng dưới 20% hướng vào lĩnh vực sản xuất, nhất là nông nghiệp, nông thôn; bảo đảm đồng thời các mục tiêu kiềm chế lạm phát, giảm lãi suất, tăng trưởng GDP cả năm đạt khoảng 6%; phối hợp với Bộ Công an và các cơ quan liên quan quản lý và kiểm soát hoạt động mua bán vàng, ngoại tệ theo đúng quy định.
– Bộ Tài chính tiếp tục điều hành chính sách tài khóa thắt chặt kết hợp hài hòa với chính sách tiền tệ chặt chẽ nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; chỉ đạo tăng cường quản lý thu ngân sách nhà nước, giảm bội chi xuống dưới mức đã báo cáo Quốc hội; sử dụng số tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên của 9 tháng còn lại trong dự toán năm 2011 để chi cho lĩnh vực an sinh xã hội; phối hợp với Bộ Công Thương tăng cường các biện pháp kiểm soát giá cả, thị trường, chống đầu cơ, lũng đoạn thị trường, đặc biệt chú ý chỉ đạo việc cân đối và điều hành giá xăng dầu phù hợp với quy định hiện hành; khẩn trương triển khai việc miễn, giảm thuế theo Nghị quyết số 08/2011/QH13 của Quốc hội.
– Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các bộ, cơ quan, địa phương tiếp tục rà soát việc cắt giảm đầu công theo đúng tinh thần Nghị quyết số 11/NQ-CP và Nghị quyết số 83/NQ-CP của Chính phủ; thu hồi toàn bộ phần vốn ngân sách Nhà nước, trái phiếu Chính phủ kế hoạch năm 2011 đã bố trí cho các công trình, dự án không đúng đối tượng, chưa đủ thủ tục, khởi công mới trái với quy định để bổ sung cho các công trình, dự án cấp bách theo quy định tại Nghị quyết số 11/NQ-CP và Nghị quyết số 83/NQ-CP của Chính phủ, đặc biệt là các dự án điện, công trình khắc phục hậu quả thiên tai, bảo đảm an ninh quốc phòng, an sinh xã hội; các công trình, dự án thuộc chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới đã được phê duyệt và bố trí vốn (kể cả vốn cân đối ngân sách địa phương) được tiếp tục triển khai để hoàn thành mục tiêu đề ra.
– Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương tiếp tục tập trung tháo gỡ khó khăn, ưu tiên nguồn lực cho phát triển sản xuất, kinh doanh; khẩn trương rà soát tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp đang trong tình trạng khó khăn, đề xuất các giải pháp tháo gỡ, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
– Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu, phân tích làm rõ nguyên nhân lạm phát ở nước ta, từ đó đề xuất các giải pháp căn bản ứng phó có hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tiễn, trình Chính phủ xem xét tại phiên họp thường kỳ tháng 9 năm 2011.
– Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các địa phương chỉ đạo đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hóa quy mô lớn, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi; chú trọng kiểm soát, bảo đảm an ninh lương thực và tăng xuất khẩu nông sản, cải thiện thu nhập và đời sống cho nông dân; chỉ đạo đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, phòng chống dịch bệnh để tăng nguồn cung thực phẩm, bảo đảm đáp ứng nhu cầu thị trường trong dịp Tết Nguyên đán 2012; chủ động ứng phó và khắc phục hậu quả thiên tai, khôi phục nhanh sản xuất và ổn định đời sống cho nhân dân vùng bị thiệt hại.
– Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng và các cơ quan, địa phương tạm dừng cấp phép thăm dò, khai thác khoáng sản trên phạm vi cả nước; tập trung rà soát, đánh giá thực trạng cấp phép thăm dò, khai thác, chế biến và xuất khẩu khoáng sản; đề xuất các biện pháp quản lý, sử dụng tài nguyên khoáng sản hiệu quả, tiết kiệm và bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững.
– Các bộ, cơ quan, địa phương tiếp tục thực hiện đồng bộ các chính sách an sinh xã hội, tập trung vào các vùng nghèo, địa bàn đặc biệt khó khăn, người nghèo, người có công, đồng bào dân tộc thiểu số, đối tượng có hoàn cảnh khó khăn; quan tâm chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích chính đáng của người lao động, chú trọng xây dựng quan hệ lao động hài hòa, lành mạnh, tiến bộ trong doanh nghiệp.
– Các bộ, cơ quan, địa phương tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh; bảo đảm chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; tăng cường tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông, triển khai các giải pháp chống ùn tắc giao thông tại các thành phố lớn; khẩn trương kiện toàn tổ chức, hoàn thiện bộ máy hành chính nhà nước, tăng cường thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, trong đó đặc biệt quan tâm công tác quản lý nhà nước về quy hoạch, kế hoạch; chấn chỉnh việc phân cấp quản lý nhằm nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò chủ động, tính sáng tạo của địa phương đồng thời bảo đảm sự quản lý nhà nước thống nhất từ Trung ương đến địa phương.
– Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương tăng cường chỉ đạo các cơ quan báo chí, truyền thông tập trung tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, hoạt động chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và cơ quan hành chính các cấp, bảo đảm sự đồng thuận xã hội trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội.
b) Về Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2012:
Trên cơ sở đánh giá tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2011, dự báo tình hình thế giới và trong nước, căn cứ Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI, Chính phủ xác định mục tiêu tổng quát của năm 2012 là: Tiếp tục tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đạt tốc độ tăng trưởng hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, tăng cường củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Theo đó, định hướng một số chỉ tiêu kinh tế – xã hội chủ yếu của năm 2012 là: Tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5%; nhập siêu, bội chi ngân sách nhà nước thấp hơn so với chỉ tiêu đạt được năm 2011; chỉ số giá tiêu dùng tăng dưới 10%; phấn đấu đạt tỷ lệ giảm nghèo 2%, tập trung vào các huyện nghèo. Trên cơ sở các chỉ tiêu chủ yếu trên, các bộ, cơ quan, địa phương phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư rà soát mục tiêu, nhiệm vụ, xác định các chỉ tiêu kinh tế – xã hội khác, đề xuất giải pháp thực hiện phù hợp, kiên trì bám sát các giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết số 11/NQ-CP, trong đó tập trung vào một số trọng tâm sau: (i) tiếp tục nhất quán triển khai chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa chặt chẽ, hiệu quả nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; (ii) tháo gỡ khó khăn thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; (iii) đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, bao gồm việc tái cơ cấu các ngành, các lĩnh vực, các vùng, tái cơ cấu đầu tư, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước; (iv) nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ; (v) nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại, giữ vững trật tự an toàn xã hội; tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng; (vi) chú trọng công tác thông tin tuyên truyền, tạo sự đồng thuận và thống nhất ý chí, hành động trong thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước.
Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh Báo cáo đánh giá tình hình kinh tế – xã hội 8 tháng và cả năm 2011, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2012; Báo cáo đánh giá thực hiện ngân sách nhà nước năm 2011 và dự toán ngân sách nhà nước năm 2012, để chuẩn bị trình Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Quốc hội.
c) Về Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2011 – 2015, kế hoạch tài chính – ngân sách Nhà nước 5 năm 2011 – 2015:
Chính phủ thống nhất nguyên tắc: Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2011-2015 cần bám sát Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011- 2020, trên cơ sở đó xác định quan điểm phát triển, mục tiêu tổng quát, chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội, giải pháp thực hiện các khâu đột phá lớn, xác định nhiệm vụ, định hướng phát triển các ngành lĩnh vực và cơ cấu lại nền kinh tế phù hợp, khả thi.
Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính tiếp thu ý kiến thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh báo cáo Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2011 – 2015, báo cáo đánh giá thực hiện kế hoạch tài chính – ngân sách Nhà nước 5 năm 2006 – 2010 và kế hoạch tài chính – ngân sách Nhà nước 5 năm 2011 – 2015, để chuẩn bị trình Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Quốc hội.
d) Chính phủ cho ý kiến về Báo cáo kết quả thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2006 – 2010, tình hình triển khai các Chương trình mục tiêu quốc gia năm 2011 và Danh mục các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2012 – 2015.
Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan rà soát lại danh mục các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2012 – 2015 trong Báo cáo, xác định mục tiêu, phạm vi, đối tượng các chương trình một cách phù hợp; tiến hành lồng ghép các chương trình, dự án; phân cấp quản lý và tổ chức thực hiện có hiệu quả, tránh trùng lặp, thất thoát; hoàn chỉnh Báo cáo kết quả thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2006 – 2010, tình hình triển khai các Chương trình mục tiêu quốc gia năm 2011 và đề xuất Danh mục các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2012 – 2015, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trong tháng 9 năm 2011.
2. Chính phủ thảo luận và cho ý kiến về Báo cáo kết quả kiểm kê đất đai 5 năm 2005 – 2010; Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2011 – 2016 do Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường trình.
Giao Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan, tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh Báo cáo kết quả kiểm kê đất đai 5 năm 2005 – 2010; Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2011 – 2016, trình Thủ tướng Chính phủ trước khi thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ trình Quốc hội.
3. Chính phủ thảo luận về Chương trình hành động nhiệm kỳ 2011 – 2016 do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình.
Chính phủ yêu cầu các thành viên Chính phủ tham gia ý kiến vào Chương trình hành động nhiệm kỳ 2011 – 2016; Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ tiếp thu, hoàn chỉnh Chương trình hành động, trình Chính phủ xem xét, quyết định tại phiên họp thường kỳ tháng 9 năm 2011.
4. Chính phủ cho ý kiến về nội dung sửa đổi, bổ sung Quy chế làm việc của Chính phủ do Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ trình.
Giao Văn phòng Chính phủ chủ trì, tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, dự thảo Quy chế làm việc nhiệm kỳ 2011 – 2016, gửi xin ý kiến các thành viên Chính phủ; trên cơ sở đó, tiếp thu, hoàn chỉnh dự thảo Quy chế, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
5. Chính phủ xem xét và cho ý kiến về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khóa XIII do Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình.
Giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ và các bộ, cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, rà soát danh mục các dự án luật, pháp lệnh, bảo đảm sự cần thiết và tính khả thi, hoàn chỉnh Tờ trình về Chương trình này; Bộ trưởng Bộ Tư pháp, thừa uỷ quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội.
6. Chính phủ cho ý kiến về dự án Luật Giám định tư pháp do Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ báo cáo tổng hợp ý kiến các thành viên Chính phủ về dự án luật.
Giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh dự án Luật; Bộ trưởng Bộ Tư pháp, thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội./.
Theo Dangcongsan.vn
Ý kiến ()