Ngân hàng Thế giới dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2017 đạt 6,3%
Theo một báo cáo mới công bố của Ngân hàng Thế giới (WB), viễn cảnh chung các nước đang phát triển khu vực Đông Á sẽ duy trì ở mức tích cực trong vòng 3 năm tới nhờ cầu nội địa mạnh, kinh tế toàn cầu dần hồi phục, và giá hàng hoá nguyên vật liệu tăng trở lại.
Nhờ tăng trưởng đều và thu nhập của người lao động tăng lên, tình trạng nghèo trong khu vực cũng sẽ thuyên giảm. Tuy nhiên, môi trường toàn cầu và những yếu kém nội tại vẫn ẩn chứa rủi ro đối với viễn cảnh của các nước trong khu vực. Trong bối cảnh lãi suất tại Hoa Kỳ tăng nhanh hơn dự kiến, tâm lý bảo hộ tại một số nước phát triển, tín dụng tăng trưởng nhanh và nợ tăng nhanh tại các nước Đông Á, bản báo cáo kêu gọi các nhà hoạch định chính sách tiếp tục tập trung vào quản lý kinh tế vĩ mô, và duy trì cân đối tài khoá bền vững trong kỳ trung hạn.
Theo báo cáo, tăng trưởng kinh tế Trung Quốc sẽ tiếp tục chậm lại do tái cân đối theo hướng tập trung vào tiêu dùng và dịch vụ. Dự báo kinh tế Trung Quốc sẽ tăng trưởng 6,5% trong năm 2017 và 6,3% trong năm 2018 trong khi tỉ lệ tăng trưởng năm 2016 là 6,7%. Các nước còn lại, bao gồm cả các nền kinh tế lớn khu vực Đông Nam Á, sẽ đạt mức tăng trưởng nhỉnh hơn một chút so với trước đây, cụ thể 5,0% năm 2017, 5,1% năm 2018. Mức tăng trưởng trung bình các nước này năm 2016 là 4,9%. Tính trung bình, tất cả các nước khu vực Đông Á – Thái Bình Dương dự báo sẽ tăng trưởng 6,2% năm 2017 và 6,1% năm 2018.
Theo bà Victoria Kwakwa, Phó Chủ tịch WB phụ trách khu vực Đông Á – Thái Bình Dương, các chính sách phù hợp, và viễn cảnh kinh tế toàn cầu đang hồi phục dần đã giúp các nước đang phát triển trong khu vực duy trì tăng trưởng và giảm nghèo. Nhưng nếu muốn duy trì sức bật này thì các nước phải tìm cách giảm mức độ dễ bị tổn thương về tài khoá, đồng thời nâng cao chất lượng chi công và tăng cường hội nhập toàn cầu, hội nhập khu vực.
Tăng trưởng trong khu vực sẽ tiếp tục dựa vào mức cầu nội địa mạnh, trong đó bao gồm tăng chi công, mức tăng chi cá nhân và đầu tư ngày càng mạnh. Yếu tố khác góp phần thúc đẩy tăng trưởng là nhu cầu xuất khẩu cũng tăng dần do các thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển cũng hồi phục. Giá nguyên vật liệu tăng chậm sẽ có lợi cho các nước xuất khẩu nhưng cũng không gây thiệt hại quá mức đối với các nền kinh tế nhập khẩu trong khu vực Đông Á.
Tại Trung Quốc, tỉ lệ tăng trưởng sẽ giảm nhẹ do chính phủ áp dụng các biện pháp cắt giảm dư thừa công suất và tăng trưởng tín dụng. Do vậy, báo cáo dự đoán kinh doanh bất động sản sẽ suy giảm.
Các nền kinh tế lớn trong khối ASEAN sẽ tăng trưởng cao hơn chút ít trong giai đoạn 2017-2018 bởi những nguyên nhân khác nhau tại mỗi nước. Tại Phi-líp-pin, chi công đầu tư vào cơ sở hạ tầng tăng, đầu tư tư nhân tăng, tín dụng tăng, kiều hối tăng – tất cả những yếu tố đó sẽ giúp Phi-líp-pin đạt mức tăng trưởng 6,9% trong cả hai năm 2017 và 2018. Kinh tế Ma-lai-xi-a sẽ tăng trưởng 4,3% năm 2017, 4,5% năm 2018 nhờ chính phủ tăng trợ giá, tăng chi đầu tư cơ sở hạ tầng và xuất khẩu tăng.
In-đô-nê-xi-a sẽ tăng trưởng 5,2% nhờ tăng trưởng tín dụng và giá dầu tăng, cao hơn mức 5,0% năm 2018. Việt Nam sẽ tăng trưởng 6,3% trong năm 2017 nhờ tâm lý tích cực trên thị trường và đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Các nền kinh tế nhỏ cũng sẽ được hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế của các nước láng giềng lớn hơn, còn một số khác thì được hưởng lợi nhờ giá hàng nguyên vật liệu tăng. Kinh tế Cam-pu-chia sẽ tăng trưởng 6,9% trong hai năm 2017 và 2018 do tăng chi công, và mức tăng trưởng nông nghiệp và du lịch vượt mức sụt giảm ngành xây dựng và dệt may. Tại Mi-an-ma, tăng trưởng sẽ đạt mức 6,9% năm 2017 và 7,2% năm 2018 so với mức mức 6,5% năm 2016. Lý do ở đây là chi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tăng và đổi mới cơ cấu dẫn đến tăng thu hút đầu tư nước ngoài.
Nền kinh tế Papua New Guinea sẽ hồi phục dần nhờ một số dự án khai mỏ và dầu. Tăng trưởng tại Mông Cổ sẽ chững lại trong năm 2017 do chính phủ muốn kéo nợ trở lại mức bền vững nhưng sẽ tăng nhẹ trong năm 2018.
Theo ông Sudhir Shetty, Chuyên gia kinh tế trưởng WB khu vực Đông Á – Thái Bình Dương, mặc dù viễn cảnh thuận lợi như vậy, nhưng sức bật toàn khu vực còn phụ thuộc vào việc các nhà lập chính sách có khả năng nắm bắt và điều chỉnh cho phù hợp với các bất ổn toàn cầu và yếu kém trong nước như thế nào. Các nhà lập chính sách cần ưu tiên các biện pháp đối phó với các rủi ro toàn cầu có thể đe doạ nguồn vốn từ bên ngoài và chi phí đi vay các nguồn vốn đó. Ngoài ra cũng cần chú ý đẩy mạnh xuất khẩu. Cần tập trung tăng cường chính sách và khung thể chế hướng tới tăng năng suất lao động.
Báo cáo kêu gọi áp dụng các biện pháp kinh tế vĩ mô cẩn trọng nhằm đối phó với các rủi ro kinh tế trong khu vực. Báo cáo cho biết, tăng thu ngân sách tại các nền kinh tế lớn sẽ giúp chính phủ thực hiện các chương trình thúc đẩy tăng trưởng và hoà nhập đồng thời giảm rủi ro về bền vững tài khoá. Một số nền kinh tế nhỏ xuất khẩu nguyên vật liệu cần thực hiện các bước nhằm nâng cao khả năng thanh toán tài khoá. Lạm phát tăng, mặc dù với một xuất phát điểm thấp, cùng với dòng vốn không ổn định sẽ buộc các nhà hoạch định chính sách tại nhiều nước phải điều chỉnh lại chính sách tiền tệ kích cầu của mình.
Tại Trung Quốc, bản báo cáo khuyến cáo chính phủ nên tiếp tục giảm nợ công ty và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, thắt chặt điều tiết hoạt động cho vay ngầm và giải quyết vấn đề gia tăng nợ cầm cố hộ gia đình. Ngoài cắt giảm dư thừa năng lực sản xuất công nghiệp chính phủ cũng cần tăng cường các chính sách an sinh xã hội và lao động. Trước tình hình tăng trưởng tín dụng mạnh trong khu vực, trong đó gồm có Việt Nam, Phi-líp-pin, CHDCND Lào, bản báo cáo đề nghị tăng cường quản lý và giám sát.
Thách thức lâu dài đối với khu vực là làm sao duy trì được tăng trưởng với tốc độ cao nhưng đồng thời đảm bảo hoà nhập được mọi đối tượng vào tiến trình này. Chính phủ các nước có thể giải quyết các thách thức này bằng cách tập trung tăng năng suất, đẩy mạnh đầu tư vốn đã bị thuyên giảm trong thời gian gần đây, và nâng cao chất lượng chi công.
Trong bối cảnh chủ nghĩa bảo hộ trỗi dậy tại các nước ngoài khu vực, các nước Đông Á có thể tận dụng cơ hội để tăng cường hội nhập nội khối, ví dụ bằng cách phát triển theo chiều sâu các sáng kiến hiện nay, giảm rào cản di động lao động, mở rộng giao thương hàng hoá và dịch vụ qua biên giới giữa các nước Cộng đồng Kinh tế ASEAN.
Ngoài ra, báo cáo cũng khuyến cáo các nhà làm chính sách nên hướng tới một quỹ đạo tăng trưởng bền vững hơn bằng cách cắt giảm ô nhiễm gây ra bởi phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng thâm canh tại các nước trong khu vực./.
Theo dangcongsan
Ý kiến ()