Nặn tò he - nét văn hóa dân gian ở các vùng quê Việt Nam
Ban đầu, tò he là sản phẩm làm bằng bột dùng để cúng lễ nên chúng thường có hình thù các con vật như công, gà, trâu, bò, lợn, cá… nên người ta gọi sản phẩm này là “đồ chơi chim cò.”
Tò he là một loại đồ chơi dân gian của trẻ em Việt Nam, có thể ăn được. Ngày nay, nặn tò he là một nét văn hóa dân gian ở các vùng quê Việt Nam, đặc biệt là Bắc Bộ.
Tò hetruyền thống
Ban đầu, tò he là sản phẩm làm bằng bột dùng để cúng lễ nên chúng thường có hình thù các con vật như công, gà, trâu, bò, lợn, cá… vì vậy, người ta gọi sản phẩm này là “đồ chơi chim cò.” Một số vùng tại miền Bắc, người ta còn gọi là “con bánh” vì bên cạnh hình thù các con vật, người ta còn nặn bột thành nải chuối, quả cau, chân giò, đĩa xôi… tạo thành mâm cỗ để đi chùa dâng cúng.
Sản phẩm này có màu sắc tương đối giống đồ thực và có pha thêm chút đường nên có thể ăn được. Về sau, sản phẩm được gắn vào một chiếc kèn ống, ở đầu kèn có quét chút mạch nha, khi thổi phát ra âm thanh “tò te” thế nên có lẽ người ta gọi là “tò te”, sau này nói trại thành “tò he.”
Theo cách của làng làng Xuân La, xã Phượng Dực, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội, nguyên liệu chính để làm tò he là bột gạo có trộn ít nếp theo tỷ lệ 10 phần gạo, một phần nếp (sẽ cần phải cho thêm nhiều nếp để giữ được độ dẻo của sản phẩm nếu thời tiết nóng, hanh khô), trộn đều, ngâm nước rồi đem xay nhuyễn, luộc chín và nhào nhanh tay. Sau đó, người ta nắm bột lại thành từng vắt và nhuộm màu riêng từng vắt. Bốn màu cơ bản là vàng, đỏ, đen, xanh.
Trước đây, người ta sử dụng màu có nguồn gốc từ thực vật và đun sôi với một ít bột: màu vàng làm từ hoa hòe hoặc củ nghệ, màu đỏ từ quả gấc hoặc dành dành, màu đen thì đốt rơm rạ hoặc dùng cây nhọ nồi, màu xanh lấy từ lá chàm hoặc lá riềng. Các màu sắc trung gian khác đều được tạo từ bốn màu này. Bây giờ, người ta chuyển sang sử dụng màu thực phẩm công nghiệp vì tiện ích của nó.
Các nghệ nhân thường di chuyển xa nhà, rong ruổi trong các phiên chợ quê, các làng xóm, phố phường để nặn tò he bán, nhất là khi nơi nào có đình đám, hội hè. Hành trang đồ nghề của họ khá đơn giản: một con dao nhỏ, vài que tre, chút sáp ong, một cái lược và một thùng xốp để cắm tò he lên trưng bày.
Nghệ nhân Đặng Văn Hậu, người luôn trăn trở với nghề nặn tò he.
Phục hồi thú chơi truyền thống
Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trịnh Bách, trước những năm 1960, mỗi dịp Rằm tháng Tám là các con giống nặn bằng bột lại được bày bán khắp nơi ở Hà Nội và các tỉnh miền Bắc Việt Nam, như một thành phần không thể thiếu cho mâm cỗ Trung Thu .
Những con giống bằng bột này không chỉ hấp dẫn trẻ con, mà nhiều khi còn hấp dẫn cả người lớn.
Sau này, một số người Bắc di cư cũng đem theo truyền thống này vào miền Nam và nó tồn tại ở đây cho đến khoảng cuối thập niên 1980.
Nghệ nhân Đặng Văn Hậu cho biết, những con giống bột anh phục hồi thời gian qua chủ yếu thuộc ba loại gồm con giống bột Trung Thu Đồng Xuân, thường là những con vật nuôi gần gũi với con người thời xưa như trâu, ngựa, dê, chó, gà, lợn (gọi chung là bộ lục súc).
Bên cạnh đó, cũng còn có một số con vật, đồ vật thân quen với đời sống thường ngày như con cua, con cá vàng, đôi hài, mâm ngũ quả…
Một loại nữa là con giống của Phố Khách (các phố của người Tàu quanh khu phố cổ ngày xưa) thường cầu kỳ, tinh xảo hơn, chủ yếu là các con vật trong thần thoại như nghê hý châu, sư tử hý cầu, cá hóa long, con thiềm thừ…
Loại thứ ba là con giống bột của Phú Xuyên, thường được gọi là bánh chim cò, kiểu dáng không bị bó buộc mà thay đổi tuỳ theo bàn tay sáng tạo của từng thợ, được làm hoàn toàn bằng nguyên liệu từ thiên nhiên, sau khi chơi xong có thể hấp lên ăn được.
Trong ba loại con giống bằng bột đó, hai loại là con giống bột Trung thu Đồng Xuân và con giống Phố Khách gần như đã thất truyền vào đầu năm 90 và không còn ai làm.
Ngày nay, các nghệ nhân không chỉ nặn tò he với hình thù đơn giản về các con vật, các loại trái cây… nhưng còn nặn nhiều hình thù phong phú khác như 12 con giáp, nhiều nhất là các nhân vật mà trẻ con yêu thích như Aladin, Đôrêmon, Pokémon, Tề Thiên, Trư Bát Giới, Na Tra…/.
Ý kiến ()