Đại hội XI của Đảng đã nêu nhiều nội dung lớn, quan trọng về định hướng XHCN nền kinh tế thị trường trong thời kỳ phát triển mới của đất nước. Dưới đây chỉ trình bày một số quan điểm, nội dung cơ bản.Phát triển kinh tế nhanh và bền vững, với định hướng cơ bản: Một là, ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững. Theo đó, phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh, tạo nền tảng cho một nước công nghiệp, theo hướng: Tăng hàm lượng khoa học - công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm; ưu tiên, chọn lọc phát triển các ngành công nghiệp dựa trên công nghệ cao, các sản phẩm công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, có khả năng tham gia vào mạng sản xuất và...
Đại hội XI của Đảng đã nêu nhiều nội dung lớn, quan trọng về định hướng XHCN nền kinh tế thị trường trong thời kỳ phát triển mới của đất nước. Dưới đây chỉ trình bày một số quan điểm, nội dung cơ bản.
Phát triển kinh tế nhanh và bền vững, với định hướng cơ bản:
Một là, ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững. Theo đó, phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh, tạo nền tảng cho một nước công nghiệp, theo hướng: Tăng hàm lượng khoa học – công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm; ưu tiên, chọn lọc phát triển các ngành công nghiệp dựa trên công nghệ cao, các sản phẩm công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, có khả năng tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Chú trọng phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, năng lượng sạch, vật liệu mới; từng bước phát triển công nghiệp sinh học và công nghiệp môi trường. Đổi mới căn bản phương thức tổ chức kinh doanh nông sản, bảo đảm phân phối lợi ích hợp lý từ công đoạn sản xuất đến tiêu dùng; đẩy mạnh phát triển chăn nuôi theo phương thức công nghiệp, bán công nghiệp, bảo đảm chất lượng và an toàn; phát triển lâm nghiệp bền vững. Khai thác bền vững, có hiệu quả nguồn lợi hải sản gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường biển. Mục tiêu phấn đấu là tốc độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân 5 năm đạt từ 2,6 đến 3%/năm. Phát triển nhanh, hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế – kỹ thuật đồng bộ, với một số công trình hiện đại, trước hết là hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, cung cấp năng lượng (điện), thủy lợi, bảo đảm sử dụng tiết kiệm các nguồn lực và hiệu quả kinh tế – xã hội, bảo vệ môi trường.
Hai là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh dài hạn, bảo đảm kinh tế – xã hội phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Vì thế, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phải được xác định là một nội dung trọng tâm của phát triển bền vững và của quá trình hiện đại hóa.
Nguồn nhân lực chất lượng cao mà Việt Nam quan tâm phát triển là: Nguồn nhân lực đại học và cao đẳng, đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị kinh doanh giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học – công nghệ đầu đàn. Phát triển giáo dục phải thật sự là quốc sách hàng đầu và là giải pháp quyết định nhất để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Phát triển khoa học và công nghệ (nhất là công nghệ cao) là động lực then chốt của phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng, của quá trình phát triển nhanh và bền vững nói chung. Phấn đấu đến năm 2015, lao động qua đào tạo đạt 55%, năm 2020 đạt hơn 70%, đào tạo nghề đạt 55% tổng số lao động xã hội.
Ba là, gắn phát triển kinh tế với bảo vệ và cải thiện môi trường. Chương trình Môi trường Liên hợp quốc đã cảnh báo rằng, bây giờ là thời điểm mà Việt Nam cần kiên trì theo đuổi mục tiêu phát triển bền vững. Nếu không giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi trường thì Việt Nam có thể sẽ xóa đi tất cả các thành tựu kinh tế và xã hội ấn tượng đã đạt được trong nhiều năm qua. Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, thông qua các nội dung: Gắn mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế – xã hội. Phát triển kinh tế phải tính đến lợi ích xã hội và môi trường bền vững; thực hiện nghiêm ngặt lộ trình xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường.
Hoàn thiện chính sách phân phối thu nhập quốc dân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Phân phối thu nhập quốc dân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa phải bảo đảm giải quyết hài hòa lợi ích nhà nước, doanh nghiệp và người lao động, vừa bảo đảm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề tiến bộ, công bằng xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Hoàn thiện chính sách phân phối thu nhập quốc dân, tập trung vào hai chính sách chủ yếu.
Thứ nhất: Chính sách phân phối tài chính qua ngân sách nhà nước
Chính sách phân phối tài chính qua ngân sách nhà nước vừa là phương hướng cơ bản xử lý hệ thống các lợi ích kinh tế trong phân phối thu nhập quốc dân, vừa là công cụ quan trọng điều tiết phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Muốn hoàn thiện chính sách này, Nhà nước cần phải chuyển từ chính sách thu hướng vào bảo đảm nguồn thu sang chính sách thu hướng vào tăng trưởng, với các định hướng sau:
Chính sách thu, nhất là chính sách thuế, phải được nhìn nhận như là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước chứ không đơn thuần là công cụ động viên nguồn thu ngân sách nhà nước.
Chính sách thu phải phù hợp với điều kiện Việt Nam đã hội nhập đầy đủ và toàn diện vào nền kinh tế thế giới.
Chính sách thu phải bảo đảm công bằng, bình đẳng, thống nhất giữa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, các tầng lớp nhân dân, bảo đảm sự ổn định, minh bạch, công khai …
Ngoài ra, cần sớm thực hiện chiến lược hiện đại toàn diện công tác quản lý thu: phương pháp quản lý, thủ tục hành chính, bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ, công nghệ quản lý mới, hiện đại.
Thứ hai: Chính sách tiền lương và thu nhập
Tiền lương là giá cả sức lao động, được hình thành trên thị trường theo quy luật giá trị, quan hệ cung – cầu và cạnh tranh về sức lao động. Tiền lương và thu nhập là bộ phận cấu thành chủ yếu của lợi ích kinh tế người lao động. Hơn thế nữa, tiền lương và thu nhập còn là một yếu tố cấu thành chi phí sản xuất kinh doanh, do đó nó là một yếu tố của sản xuất.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền lương và thu nhập theo hướng: Từng bước tách chính sách bảo hiểm xã hội và chính sách ưu đãi người có công với nước tương đối độc lập với chính sách tiền lương; Hoàn thiện chính sách tiền lương phải gắn với cải cách kinh tế, thiết lập đồng bộ các loại thị trường hàng hóa, dịch vụ, bất động sản… Các thị trường phải hoạt động “lành mạnh”, có hiệu quả; nâng mức lương tối thiểu chung bảo đảm mức sống tối thiểu của người lao động. Điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng đối với khu vực doanh nghiệp, tiến tới thực hiện mức lương tối thiểu theo thống nhất giữa các doanh nghiệp, theo cam kết quốc tế (WTO); tách rõ tiền lương của khu vực hành chính với khu vực sự nghiệp; tiền lương của khu vực hành chính (Nhà nước, Đảng, Mặt trận, các đoàn thể) và lực lượng vũ trang do ngân sách nhà nước bảo đảm; Chống chủ nghĩa bình quân trong chính sách tiền lương bằng cách mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình tối đa; thu hẹp thang, bảng, bậc lương; hoàn thiện các chế độ phụ cấp và gộp vào tiền lương.
Tiếp tục giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường
Để thực hiện tốt giải pháp này, trong thời gian tới cần tập trung giải quyết vấn đề: Tạo việc làm, trên cơ sở đó thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo. Đây là giải pháp tích cực và cơ bản nhất để thực hiện công bằng xã hội.
Về tạo việc làm, theo các hướng: Khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư phát triển doanh nghiệp và sản xuất kinh doanh, từ đó thu hút thêm lao động; Khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại trong lĩnh vực nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nhất là ở địa bàn nông thôn, tạo điều kiện cho người dân làm giàu trên mảnh đất của mình bằng chính sách hỗ trợ của Nhà nước và công nghệ tiên tiến với phương châm “làm giàu để xóa nghèo”; Khuyến khích người lao động tự tạo việc làm một cách chính đáng. Phát triển lành mạnh các hoạt động dịch vụ việc làm, dịch vụ lao động… với mục tiêu phấn đấu đến năm 2015 giải quyết việc làm cho tám triệu lao động.
Về xóa đói, giảm nghèo: Tiếp tục thực hiện chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo theo hướng bền vững. Điểm nổi bật của chiến lược này là Đảng và Nhà nước ta đã gắn chặt mục tiêu xóa đói, giảm nghèo với chiến lược phát triển, coi xóa đói, giảm nghèo là một bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển, là mục tiêu xuyên suốt của quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Xóa đói, giảm nghèo vừa là mục tiêu, vừa là tiền đề, điều kiện và là thước đo phát triển bền vững, là yếu tố cơ bản bảo đảm công bằng xã hội.
Ở nước ta trong thời gian qua, công tác xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm là đáng khích lệ, được thế giới đánh giá cao. Song sức ép về việc làm và xóa đói, giảm nghèo ở nước ta còn rất lớn, tỷ lệ hộ tái nghèo gia tăng, tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chuẩn mới (2006-2010 là 200.000đồng/tháng/người đối với vùng nông thôn và 260.000 đồng/tháng/người đối với thành thị) tại thời điểm hiện nay vẫn còn cao.
Để đạt mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân 2-3%/năm vào năm 2020 như Đại hội lần thứ XI của Đảng nêu ra, cần triển khai đồng bộ hơn và có định hướng cơ bản lâu dài hơn một hệ thống giải pháp tổng thể: Thực hiện nghiêm ngặt chương trình mục tiêu quốc gia về dân số và kế hoạch hóa gia đình, bảo đảm tốc độ tăng dân số ổn định 1,1% (thời kỳ 2011-2020). Đây là vấn đề cốt lõi của chính sách tạo việc làm và xóa đói, giảm nghèo, nhất là ở vùng sâu, vùng xa; Tăng cường công tác đào tạo nghề cho lực lượng lao động, nhất là lao động ở nông thôn, nông nghiệp nhằm xây dựng đội ngũ lao động có tay nghề phục vụ yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và yêu cầu xuất khẩu lao động.
Những chính sách trên cần gắn kết với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội đa dạng, phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, sớm triển khai hình thức bảo hiểm thất nghiệp, khuyến khích mở rộng hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện; bảo hiểm nhân thọ, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân; xây dựng hệ thống bảo trợ xã hội trong tổng thể hệ thống an sinh xã hội đa tầng, linh hoạt và hỗ trợ lẫn nhau, có khả năng bảo vệ mọi thành viên trong xã hội, nhất là những gia đình có công với nước. Sửa đổi, bổ sung chế độ trợ cấp xã hội theo mức sống tối thiểu của xã hội trong từng thời kỳ; thực hiện các chương trình mục tiêu kinh tế – xã hội (chương trình giảm nghèo, việc làm, dạy nghề…) hướng ưu tiên vào những người cần được bảo trợ xã hội.
Theo Nhandan
Ý kiến ()