Năm 2016, vượt qua nhiều khó khăn, kinh tế duy trì tăng trưởng khá và ổn định
Trong bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự báo, kinh tế nước ta đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, GDP năm 2016 ước tính tăng 6,21% so với năm 2015. Tuy tốc độ tăng trưởng GDP không đạt mục tiêu đề ra là 6,7%, nhưng vẫn cao hơn mức dự báo của Ngân hàng Thế giới là 6%.
Trong năm 2016, Chính phủ đã lãnh đạo, chỉ đạo các ngành, địa phương tập trung thực hiện đồng bộ, có hiệu quả Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 07/01/2016, về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2016; đồng thời, ban hành hàng loạt các nghị quyết để chỉ đạo, giải quyết những vấn đề cấp bách, khắc phục khó khăn, thúc đẩy phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân, bảo vệ môi trường sinh thái. Với những đổi mới mạnh mẽ và sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và toàn dân, kinh tế nước ta năm 2016 đã vượt qua khó khăn, thách thức, đạt nhiều kết quả tích cực.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2016 đạt 6,21%; trong đó, quý I tăng 5,48%, quý II tăng 5,78%, quý III tăng 6,56%, quý IV tăng 6,68%. Mức tăng trưởng năm nay tuy thấp hơn mức tăng 6,68% của năm 2015 và không đạt mục tiêu tăng trưởng 6,7% đề ra, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới không thuận, giá cả và thương mại toàn cầu giảm, tình hình trong nước gặp nhiều khó khăn do thời tiết, môi trường biển diễn biến phức tạp thì đạt được mức tăng trưởng trên là một thành công; khẳng định tính đúng đắn, kịp thời, hiệu quả của các biện pháp, giải pháp được Chính phủ ban hành, chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, các địa phương cùng thực hiện.
Trong mức tăng 6,21% của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,36%, thấp nhất kể từ năm 2011 trở lại đây, đóng góp 0,22 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,57%, thấp hơn mức tăng 9,64% của năm trước, đóng góp 2,59 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 6,98%, đóng góp 2,67 điểm phần trăm.
Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, ngành lâm nghiệp có mức tăng cao nhất với 6,11%, nhưng do chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,04 điểm phần trăm vào mức tăng chung. Ngành nông nghiệp với quy mô trong khu vực lớn nhất (khoảng 75%) chỉ tăng thấp ở mức 0,72%, đóng góp 0,09 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 2,80%, đóng góp 0,09 điểm phần trăm. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm nay gặp nhiều khó khăn do diễn biến bất lợi của thời tiết, rét đậm, rét hại đầu năm tại các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ; hạn hán, xâm nhập mặn tại khu vực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long; liên tục những đợt lũ trong các tháng cuối năm tại các tỉnh miền Trung và sự cố môi trường biển xảy ra cuối tháng 4 tại vùng biển các tỉnh Bắc Trung Bộ đã gây ảnh hưởng lớn tới kết quả sản xuất của khu vực này.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp tăng 7,06% so với năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đạt mức tăng cao 11,90%, đóng góp đáng kể vào mức tăng trưởng chung với 1,83 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng năm nay giảm tới 4%, đã làm giảm 0,33 điểm phần trăm mức tăng trưởng chung, đây là mức giảm sâu nhất từ năm 2011 trở lại đây. Nguyên nhân chủ yếu do giá dầu thế giới giảm khiến lượng dầu thô khai thác giảm hơn 1,67 triệu tấn so với năm trước; sản lượng khai thác than cũng chỉ đạt 39,6 triệu tấn, giảm 1,26 triệu tấn. Xu hướng ngành công nghiệp chuyển dịch sang lĩnh vực chế biến, chế tạo, giảm sự phụ thuộc vào ngành khai khoáng là điều cần thiết vì Việt Nam đang hướng tới mục tiêu phát triển bền vững hơn. Ngành xây dựng tăng trưởng khá với tốc độ 10%, đóng góp 0,60 điểm phần trăm vào mức tăng chung. Nhìn chung, tăng trưởng ngành công nghiệp năm 2016 chủ yếu dựa vào ngành chế biến, chế tạo với mức tăng khá cao; tình hình tiêu thụ sản phẩm thuận lợi, tồn kho ở mức thấp nhất trong nhiều năm vừa qua. Tuy nhiên, tăng trưởng công nghiệp nước ta vẫn chủ yếu về bề rộng (tăng số doanh nghiệp, tăng vốn đầu tư và thu hút lao động), trong khi năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn hạn chế.
Trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng trưởng chung như: Bán buôn và bán lẻ chiếm tỷ trọng lớn nhất, đạt mức tăng 8,28% so với năm 2015, đóng góp 0,77 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,79%, đóng góp 0,43 điểm phần trăm; hoạt động kinh doanh bất động sản được cải thiện hơn với mức tăng 4,00%, cao hơn mức tăng 2,96% của năm trước, đóng góp 0,21 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống năm nay có mức tăng trưởng khá cao 6,70% so với mức tăng 2,29% của năm 2015, đóng góp 0,25 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung.
Về tình hình hoạt động của doanh nghiệp, tính chung cả năm 2016, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới đạt mức kỷ lục với 110,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 16,2% so với năm 2015; tổng vốn đăng ký là 891,1 nghìn tỷ đồng, tăng 48,1%. Trong năm nay còn có 26.689 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 24,1% so với năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động năm 2016 lên gần 136,8 nghìn doanh nghiệp. Điều này cho thấy khung khổ pháp lý mới cùng với các giải pháp của Chính phủ trong việc hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp phát triển đã phát huy hiệu quả, môi trường kinh doanh được cải thiện rõ rệt, doanh nghiệp đã tìm thấy cơ hội kinh doanh và niềm tin vào thị trường. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong năm nay ở hầu hết các ngành, lĩnh vực đều tăng so với năm trước.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài tiếp tục được duy trì. Cũng theo số liệu của Tổng cục Thống kê, từ đầu năm đến thời điểm 26/12/2016 thu hút được 2.556 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 15.182,3 triệu USD, tăng 27% về số dự án. Bên cạnh đó, có 1.225 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 5.765,1 triệu USD, tăng 50,5% về số dự án. Trong năm 2016, có 2.547 doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài góp vốn mua cổ phần với tổng vốn đầu tư là 3.425,3 triệu USD. Như vậy, tính chung tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới, cấp vốn bổ sung và đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần trong năm 2016 đạt 24.372,7 triệu USD, tăng 7,1% so với năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2016 ước tính đạt 15,8 tỷ USD, tăng 9% so với năm 2015, đạt mức giải ngân vốn FDI cao nhất từ trước đến nay.
Trong hoạt động ngoại thương, cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng 11 nhập siêu 243 triệu USD; tháng 12 ước tính nhập siêu 300 triệu USD. Tính chung cả năm 2016, xuất siêu 2,68 tỷ USD. Về xuất khẩu, tính chung cả năm 2016, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 175,9 tỷ USD, tăng 8,6%; kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính đạt 173,3 tỷ USD, tăng 4,6% so với năm trước. Nhìn chung, sự cố Galaxy Note 7 không ảnh hưởng nhiều đến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam nói chung cũng như đối với nhóm hàng điện thoại và linh kiện nói riêng do Samsung đã ra các dòng sản phẩm khác để bù đắp. Tuy sự cố Galaxy Note 7 không ảnh hưởng nhiều đến việc giảm kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam nhưng dự báo mức tăng trưởng của nhóm hàng này sẽ chậm dần trong các năm tới.
Về tác động của sự kiện Brexit đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, trong khối EU, Anh là đối tác thương mại đứng thứ 3 về xuất khẩu của Việt Nam sau Đức và Hà Lan với tỷ trọng chiếm khoảng 13%-15% tổng kim ngạch xuất khẩu với EU. Về nhập khẩu, Anh đứng thứ 4 sau Đức, Pháp và Italia, chiếm khoảng 7% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ EU. Thị trường Anh chỉ chiếm gần 3% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và 0,4% tổng kim ngạch nhập khẩu. Anh là thị trường luôn đạt mức xuất siêu: Năm 2014 là 3 tỷ USD, năm 2015 là 3,9 tỷ USD và năm 2016 ước tính là 4,1 tỷ USD, cho thấy đây là thị trường nhiều tiềm năng đối với hàng hóa Việt Nam. Theo Hiệp ước, nước Anh cần 2 năm để tiến hành các thủ tục chính thức cho việc rời khỏi EU. Như vậy, trong năm 2016, sự kiện Brexit hầu như không có tác động trực tiếp đến luồng hàng hóa giao dịch giữa 2 quốc gia.
Nhìn chung, năm 2016 mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng tình hình kinh tế nước ta đã chuyển biến tích cực và đạt được kết quả quan trọng. Kinh tế vĩ mô ổn định. Môi trường kinh doanh được cải thiện rõ rệt; số doanh nghiệp mới thành lập và quay trở lại hoạt động tăng cao. Tuy nhiên, bên cạnh các mặt tích cực, nền kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn, thách thức: Tốc độ tăng trưởng chưa đạt như kỳ vọng, xuất nhập khẩu chưa có cải thiện nhiều…
Năm 2017 có ý nghĩa rất quan trọng, năm then chốt trong việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016-2020. Bên cạnh những yếu tố thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội, như: Nền kinh tế tiếp tục phục hồi, môi trường kinh doanh thông thoáng tạo niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp, tình hình kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát…, dự báo năm 2017 sẽ có nhiều khó khăn, thách thức tác động đến kinh tế nước ta: Tăng trưởng kinh tế thế giới dự báo có xu hướng cải thiện nhưng vẫn ở mức thấp. Tháng 10/2016, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2017 ở mức 3,4% (năm 2016 là 3,1%). Thị trường tài chính tiền tệ, giá cả hàng hóa thế giới diễn biến phức tạp. Ở trong nước, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, các cân đối của nền kinh tế chưa thật sự vững chắc. Bội chi ngân sách nhà nước và nợ công tăng. Hệ thống các tổ chức tín dụng đang tồn tại nhiều rủi ro. Thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp; những tác động xấu của biến đổi khí hậu, đặc biệt là hạn hán, xâm nhập mặn nghiêm trọng tại Đồng bằng sông Cửu Long sẽ ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp và đời sống của nhân dân.
Để hoàn thành tốt mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế năm 2017 đã được Quốc hội thông qua, trong đó có chỉ tiêu GDP tăng khoảng 6,7%, các cấp, các ngành và địa phương cần nhận thức đúng và đầy đủ những khó khăn, thách thức phía trước để kịp thời có các giải pháp khắc phục ngay từ những ngày đầu, tháng đầu của năm 2017; trong đó, tập trung vào những nội dung chủ yếu như: Điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và hoạt động ngân hàng hiệu quả, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Tăng trưởng tín dụng hợp lý, điều hành lãi suất, tỷ giá phù hợp với diễn biến thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế để góp phần thúc đẩy sản xuất và thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát. Tái cơ cấu các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu, xử lý các vướng mắc về cơ chế, tạo thuận lợi cho việc mở rộng tín dụng phục vụ phát triển kinh tế, đảm bảo an toàn hệ thống và quyền lợi của người gửi tiền.
Thực hiện nghiêm Luật Ngân sách Nhà nước và kỷ luật tài khóa. Nuôi dưỡng nguồn thu ngân sách nhà nước, đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời. Tăng cường các biện pháp chống thất thu, chuyển giá và nợ đọng thuế. Giám sát chặt chẽ các khoản chi từ ngân sách nhà nước, đặc biệt là đầu tư công. Triệt để tiết kiệm chi tiêu thường xuyên, nhất là kinh phí hội nghị, tiếp khách, đi công tác nước ngoài, sử dụng xe công. Thực hiện các giải pháp về tái cơ cấu thu – chi ngân sách nhà nước và nợ công, tăng cường quản lý nợ công, nhất là các khoản vay mới. Tính toán lộ trình điều chỉnh giá các hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước quản lý giá, bảo đảm không ảnh hưởng lớn đến mặt bằng giá và phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát năm 2017.
Tập trung thực hiện cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với lợi thế, nhu cầu thị trường, thích nghi với biến đổi khí hậu. Đẩy nhanh nghiên cứu và đưa vào sử dụng các loại giống chất lượng; thực hiện các biện pháp thâm canh, ứng dụng khoa học công nghệ, kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Tăng cường phòng chống, kiểm soát dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm. Đối với các tỉnh bị xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh thường xuyên bị hạn hán ở Tây Nguyên, Nam Trung Bộ cần quy hoạch lại cơ cấu sản xuất các ngành, nhất là trong sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản theo hướng hình thành các vùng chuyên canh quy mô lớn. Đồng thời, chủ động tiến hành tu bổ, nạo vét hệ thống kênh mương, công trình thủy lợi ngăn mặn, xây dựng các hồ chứa để giữ nước ngọt phục vụ cho sản xuất và đời sống của nhân dân.
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến sâu, gắn với các lợi thế về nguồn nguyên liệu nông, lâm nghiệp, thuỷ sản. Tạo điều kiện thuận lợi phát triển công nghiệp hỗ trợ, tham gia vào chuỗi sản xuất, phân phối toàn cầu. Tiếp tục đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa và thoái vốn Nhà nước tại doanh nghiệp bảo đảm công khai, minh bạch, tránh thất thoát tiền và tài sản Nhà nước.
Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, phát triển thị trường xuất khẩu, bao gồm cả thị trường truyền thống và các thị trường có sức mua tiềm năng cao. Khuyến khích xuất khẩu các nhóm hàng, mặt hàng có khả năng cạnh tranh, thị trường ổn định. Chủ động xây dựng và thực hiện các phương án, giải pháp để ứng phó trước các diễn biến mới liên quan đến TPP, Brexit. Tăng cường hoạt động dự báo thị trường trong và ngoài nước, phổ biến kịp thời thông tin thị trường, sớm phát hiện và có biện pháp vượt qua các rào cản kỹ thuật. Chủ động triển khai thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại tự do đã ký kết.
Phát triển mạnh thị trường trong nước, hệ thống bán lẻ gắn với tiêu thụ hàng nội địa. Tiếp tục triển khai thực hiện các biện pháp để đưa cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” thực sự đi vào cuộc sống, gắn với thúc đẩy sản xuất và phát triển thị trường nội địa. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý thị trường, ngăn ngừa buôn lậu, gian lận thương mại, hàng nhái, hàng giả, kém chất lượng để bảo vệ sản xuất trong nước và quyền lợi của người tiêu dùng.
Tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Kiểm soát chặt chẽ việc đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư. Kiên quyết không chấp thuận đầu tư, cấp phép, triển khai các dự án không bảo đảm tiêu chuẩn môi trường, có nguy cơ gây ô nhiễm, ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Thực hiện các biện pháp đồng bộ cải thiện chất lượng môi trường, xử lý triệt để nguồn gây ô nhiễm, nhất là tại các làng nghề, khu, cụm công nghiệp, khu kinh tế, các lưu vực sông, vùng ven biển, cơ sở sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm nặng…
Theo Dangcongsan
Ý kiến ()