Liên minh chiến đấu Việt-Lào: Những chặng đường hữu nghị và vinh quang
Những chiến sỹ quân tình nguyện Việt Nam đã sang Lào để cùng chiến đấu sát cánh bên lực lượng vũ trang Lào, góp phần đưa sự nghiệp kháng chiến chống thực dân, đế quốc của hai nước đi đến thắng lợi.
Việt Nam-Lào là hai nước láng giềng núi sông liền một dải, quan hệ gắn kết anh em giữa hai dân tộc đã được hình thành, hun đúc qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.
Trong bảy thập kỷ qua, mối quan hệ truyền thống tốt đẹp, sự gắn bó thủy chung giữa nhân dân hai nước Việt Nam-Lào được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Kaysone Phomvihane đặt nền móng, được các thế hệ lãnh đạo kế tục của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước dày công vun đắp, đã trở thành tài sản vô giá của cả hai dân tộc, là quy luật phát triển chung của hai nước trên con đường phát triển phồn vinh, để nhân dân được ấm no, hạnh phúc.
Trong thời kỳ đấu tranh chống ách thống trị và xâm lược của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, hai nước đã cùng chung sức chiến đấu chống kẻ thù chung.
Những chiến sỹ quân tình nguyện Việt Nam đã sang Lào để cùng chiến đấu sát cánh bên lực lượng vũ trang Lào, góp phần đưa sự nghiệp kháng chiến chống thực dân, đế quốc của hai nước đi đến thắng lợi vẻ vang.
Nhìn lại chặng đường hào hùng lịch sử đã qua, chúng ta có thể tự hào về quá trình hình thành và phát triển của một mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt, hiếm có trên thế giới. Chặng đường ấy ghi dấu sự quyết tâm, hy sinh xương máu và nghĩa tình quân dân từ chính những người con ưu tú của hai dân tộc.
Nhân kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam tại Lào (30/10/1949-30/10/2019), phóng viên TTXVN thực hiện loạt 5 bài viết: Những chặng đường hữu nghị và vinh quang.
Bài 1: Liên minh chiến đấu Việt-Lào – Biểu tượng của tình đoàn kết đặc biệt
Tháng 8/1954, đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Tổng Chính ủy, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Bộ Tổng Tư lệnh và đồng chí Chu Huy Mân, Đoàn trưởng Đoàn 100 chuyên gia giúp Lào đến báo cáo và chúc sức khỏe Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tại buổi gặp mặt ý nghĩa này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao quan hệ và tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt giữa Đảng, quân đội, nhân dân hai nước Việt-Lào. Người căn dặn cán bộ, đảng viên Đoàn 100: “Giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình.”
Chủ tịch Kaysone Phomvihane cũng từng đánh giá, trong lịch sử cách mạng thế giới đã có nhiều tấm gương trong sáng về tinh thần quốc tế vô sản cao cả, nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ có tình đoàn kết, liên minh chiến đấu đặc biệt, lâu dài, toàn diện như Việt Nam- Lào…
Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào vô cùng tự hào thấy rằng qua những thử thách gay go, quyết liệt trong nhiều thập kỷ, cán bộ, đảng viên, chiến sỹ và nhân dân hai nước đã thề hy sinh tất cả, kể cả hy sinh xương máu của mình vì độc lập dân tộc của hai nước.
Con đường chung đi tới độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cùng nhau xây dựng đất nước hòa bình, thịnh vượng của Việt Nam và Lào bắt nguồn chính từ tình nghĩa sắt son trong liên minh chiến đấu, đoàn kết tương trợ lẫn nhau, như Chủ tịch Kaysone Phomvihane đã khẳng định: “Núi có thể mòn, sông có thể cạn, song tình nghĩa Lào-Việt Nam sẽ mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông.”
Sự ra đời, phát triển của lực lượng Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam tại Lào
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của hai dân tộc, nhân dân hai nước Việt Nam-Lào đã có sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau.
Sự ra đời của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ngày 2/9/1945) và Chính phủ Lào Itxala (ngày 12/10/1945) là cơ sở đưa tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai nước Việt Nam-Lào lên tầm liên minh chiến đấu.
Ngay sau khi giành được chính quyền, Chính phủ hai nước đã ký Hiệp ước tương trợ Lào-Việt (ngày 16/10/1945) và Hiệp định về tổ chức Liên quân Lào-Việt (ngày 30/10/1945).
Đó là những văn kiện chính thức đầu tiên tạo cơ sở pháp lý để hai nước Việt Nam, Lào hợp tác và đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung. Từ năm 1948, lực lượng quân sự của Việt Nam tại Lào đã từng bước được tổ chức thành các đơn vị độc lập với quy mô cấp đại đội, tiểu đoàn và trung đoàn.
Ngày 30/10/1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định: “Các lực lượng quân sự của Việt Nam chiến đấu và công tác giúp Lào tổ chức thành hệ thống riêng và lấy danh nghĩa là Quân tình nguyện.”
Đây là mốc lịch sử đánh dấu bước phát triển và trưởng thành của các lực lượng quân sự trên chiến trường Lào; khẳng định đường lối, quan điểm đúng đắn của Đảng ta trong thực hiện nghĩa vụ quốc tế.
Ngày 30/10/1949 được lấy làm Ngày truyền thống Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam tại Lào. Tháng 4/1950, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng-Tổng Tư lệnh quyết định thống nhất các lực lượng Quân tình nguyện hoạt động trên chiến trường Bắc Lào thành ba phân khu (A, B và C), được biên chế thành các trung đoàn, tiểu đoàn và đại đội.
Sau thắng lợi của chiến dịch Biên giới Thu-Đông 1950 ở Việt Nam, bước sang năm 1951, theo thỏa thuận của lãnh đạo hai nước Việt Nam-Lào, Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh tiếp tục tăng cường cán bộ và bộ đội tình nguyện sang chiến trường Lào, đưa tổng quân số tăng lên khoảng 12.000 người.
Tháng 4/1951, Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh quyết định thống nhất các lực lượng Quân tình nguyện ở Bắc Lào và Tây Lào, thành lập Ban cán sự Đảng và Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Mặt trận Thượng Lào. Về mặt tổ chức, Quân tình nguyện Mặt trận Thượng Lào có 4 đoàn: 80, 81, 82 và 83 (mỗi đoàn tương đương một trung đoàn) phụ trách hoạt động giúp bạn trên một địa bàn.
Trong những năm 1954-1959, phương thức hợp tác giúp đỡ của Việt Nam đối với cách mạng Lào có sự thay đổi. Ta chủ trương chuyển từ chế độ Quân tình nguyện (trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp) sang chế độ cố vấn quân sự (từ năm 1959 gọi là Chuyên gia quân sự).
Về mặt quân sự, Trung ương Đảng ta đặt chế độ cố vấn tách khỏi hệ thống Quân tình nguyện, thực hiện ở ba cấp: Bộ Quốc phòng, Trường quân chính và các đơn vị, địa phương.
Từ năm 1960, khi đế quốc Mỹ can thiệp ngày càng trắng trợn vào công việc nội bộ của Lào, thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt,” mối quan hệ đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam-Lào được củng cố và phát triển ngày càng sâu đậm.
Theo thỏa thuận giữa hai Đảng, hai Chính phủ, sau năm 1965, Việt Nam tiếp tục tăng cường các đơn vị tình nguyện và chuyên gia giúp bạn. Quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với quân và dân các bộ tộc Lào cùng các đơn vị chủ lực từ Việt Nam sang mở các chiến dịch lớn đánh bại các cuộc hành quân của địch, tiêu diệt các căn cứ phỉ ở Thượng Lào.
Năm 1969, đế quốc Mỹ thực hiện “Chiến tranh đặc biệt tăng cường” ở Lào, yêu cầu nhiệm vụ giúp cách mạng Lào đòi hỏi ngày càng lớn. Để đáp ứng với tình hình mới của bạn, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng Việt Nam đã chủ động chấn chỉnh tổ chức biên chế các đoàn Quân tình nguyện và Chuyên gia đang làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào.
Khi đế quốc Mỹ và ngụy quân liều lĩnh mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương (năm 1970), sự phối hợp chiến đấu giữa lực lượng vũ trang Việt Nam và Lào tiếp tục có bước phát triển mới.
Theo đề nghị của Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng Lào, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng Việt Nam lần lượt cử các đoàn cố vấn, chuyên gia quân sự 100, 959, 463, 565 và các đoàn Quân tình nguyện 335, 316, 763, 766, 866, 968 sang chiến trường Lào, giúp bạn xây dựng lực lượng, củng cố vùng giải phóng, tiến hành cuộc kháng chiến anh dũng, trường kỳ, gian khổ, hy sinh với bao nhiêu chiến dịch lớn nhỏ để đập tan mọi âm mưu, sách lược của bọn đế quốc và bè lũ tay sai.
“Giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”
Với tinh thần quốc tế vô sản và thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam đã có những đóng góp to lớn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cùng với quân đội và nhân dân các bộ tộc Lào giành thắng lợi hoàn toàn trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975).
Không chỉ giúp bạn gây dựng cơ sở chính trị; xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang và các căn cứ cách mạng, Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam còn góp phần giúp bạn phát triển chiến tranh nhân dân đáp ứng yêu cầu kháng chiến; huấn luyện lực lượng vũ trang, tăng cường công tác chính trị, xây dựng Đảng; đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ đủ sức đảm đương nhiệm vụ của cách mạng Lào.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, sau khi lực lượng kháng chiến Lào chuyển từ đô thị về các vùng nông thôn, miền núi và sang vùng biên giới Thái Lan, cơ sở chính trị quần chúng còn rất ít.
Các đoàn Quân tình nguyện phải phân tán lực lượng, thành lập các đội công tác cơ sở, đội vũ trang tuyên truyền đi vào các bản mường tuyên truyền, giáo dục đường lối kháng chiến, giác ngộ và tổ chức nhân dân vào các hội Itxala.
Trong điều kiện hết sức khó khăn, cán bộ, chiến sỹ Quân tình nguyên đã nêu cao ý chí quyết tâm, sẵn sàng hy sinh, thực hiện “ba cùng với dân, kiên trì bám trụ, xây dựng cơ sở cách mạng.
Đặc biệt, Đoàn 83 Quân tình nguyện đã cùng với bạn tuyên truyền, gây dựng cơ sở cách mạng ở Vientiane từ không đến có, từ một vài cơ sở đầu tiên ở vùng Nặm Tòn phát triển lan rộng thành 5 khu căn cứ cách mạng liên hoàn trong lòng địch và một số cơ sở kháng chiến ở các địa phương.
Sự giúp đỡ tích cực của các đoàn Quân tình nguyện và những nỗ lực to lớn của bạn, vào thời điểm cuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cơ sở cách mạng và căn cứ kháng chiến, vùng giải phóng của Lào được mở rộng, trong đó có nhiều khu căn cứ kháng chiến Lào đã nối liền nhau, mở thông với các vùng căn cứ ở Tây Bắc, các vùng hậu phương của Liên khu 4, Liên khu 5 (Việt Nam), tạo thành một thế kháng chiến liên hoàn từ Bắc Lào, Trung Lào đến Hạ Lào, tạo tiền đề quan trọng thúc đẩy cuộc kháng chiến chống Pháp ở Lào phát triển.
Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam đã giúp bạn về quân sự, xây dựng lực lượng vũ trang, trong đó chú trọng xây dựng Quân đội Pathet Lào, làm nòng cốt cho các lực lượng vũ trang và nhân dân các bộ tộc Lào kháng chiến; quan tâm, giúp đỡ xây dựng các đơn vị trung lập yêu nước cùng đoàn kết phối hợp chiến đấu với Quân đội Pathet Lào.
Trong những năm 1954-1965, các Đoàn 100, 959, 463, 565 làm nhiệm vụ chuyên gia (cố vấn) quân sự đã vận dụng sáng tạo kinh nghiệm để giúp bạn xây dựng cơ cấu tổ chức lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân phù hợp với hoàn cảnh, tình hình cách mạng Lào.
Tháng 2/1966, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam ra chỉ thị cho các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào xây dựng dân quân du kích. Chỉ thị nêu rõ “giúp bạn một cách toàn diện bao gồm cả hệ thống chỉ đạo, chỉ huy và các vấn đề về đường lối, phương châm, chế độ, chính sách thuộc dân quân du kích.”
Đây cũng là nhiệm vụ chủ yếu của các đoàn, tổ chuyên gia quân sự. Suốt những năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cùng với việc xây dựng lực lượng vũ trang, Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam thường xuyên giúp bạn xây dựng các khu căn cứ, vùng giải phóng, làm chỗ dựa để tiến hành các cuộc kháng chiến lâu dài.
Với phương châm giúp bạn xây dựng thực lực cách mạng, tiến tới tự đảm đương nhiệm vụ, trong kháng chiến chống thực dân Pháp , các đoàn Quân tình nguyện Việt Nam đã sớm hỗ trợ bạn xây dựng, huấn luyện lực lượng vũ trang cách mạng chiến đấu, bảo vệ căn cứ kháng chiến.
Lúc đầu, ta đưa bạn vào các đơn vị của mình để kèm cặp, dìu dắt, tổ chức các đơn vị hỗn hợp Việt-Lào, Lào-Việt, sau đó tách ra thành các đơn vị độc lập, phân công nhiệm vụ phù hợp để rèn luyện, nâng cao trách nhiệm và trình độ mọi mặt cho các đơn vị vũ trang cách mạng Lào.
Trên cơ sở lực lượng dân quân du kích và phong trào chiến tranh du kích phát triển, ta giúp bạn xây dựng, huấn luyện bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực. Nhờ vậy, đến những năm 1951-1952, cách mạng Lào đã xây dựng được lực lượng vũ trang ba thứ quân, gồm đại đội chủ lực của khu; đại đội bộ đội tỉnh, trung đội vũ trang huyện và dân quân du kích ở bản mường.
Cùng với việc giúp bạn xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, các đoàn Quân tình nguyện hết sức coi trọng nhiệm vụ bồi dưỡng, đào tạo cán bộ cho bạn.
Trong kháng chiến chống Mỹ, Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam đã từng bước giúp bạn huấn luyện nâng cao trình độ quân sự với 4 kỹ thuật lớn, trong đó chú trọng kỹ thuật bắn súng và nguyên tắc vận dụng các hình thức chiến thuật đánh địch trong mọi tình huống; tích cực giúp bạn mở các lớp huấn luyện cán bộ ngắn ngày về chính trị, quân sự, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cho bạn ở từng giai đoạn cách mạng.
Sát cánh cùng chiến đấu
Trong suốt 30 năm (1945-1975), quân đội ta cùng quân đội và nhân dân các bộ tộc Lào đã kề vai chiến đấu, từng bước đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đặc biệt, lực lượng Quân tình nguyện Việt Nam đã cùng quân và dân bạn chiến đấu bảo vệ tuyến đường vận tải chiến lược-Đường Hồ Chí Minh phía Tây Trường Sơn; xây dựng chiến trường Lào thành chiến trường phối hợp với các hướng chiến trường khác, góp phần vào thắng lợi chung của cách mạng ba nước Việt Nam-Lào-Campuchia.
Đầu năm 1951, Đoàn 80 Quân tình nguyện đã cùng với một số đơn vị Quân đội Lào Itxala tổ chức nhiều trận phục kích địch. Những trận đánh nhỏ lẻ bằng các hình thức tập kích, phục kích cùng những trận chống địch càn quét của Quân tình nguyện và Quân đội Lào Itxala những năm 1951-1952 và đầu năm 1953 thắng lợi đã mở ra khả năng chuyển sang đánh nhiều trận liên tiếp; đồng thời phối hợp với các đơn vị quân chủ lực Việt Nam sang mở những chiến dịch lớn.
Đó là các chiến dịch Thượng Lào (13/4-18/5/1953), Trung Lào (21/12/1953-4/1954), Thượng Lào (29/1-13/2/1954), Hạ Lào-Đông Bắc Campuchia (31/1-4/1954), đã tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, mở rộng và củng cố các vùng giải phóng ở Thượng Lào, Trung Lào và Hạ Lào, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn bình định của địch, âm mưu chia rẽ tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt giữa quân đội và nhân dân hai nước Lào-Việt Nam.
Với vai trò nòng cốt, trong kháng chiến chống Mỹ, Quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục chủ động phối hợp với lực lượng vũ trang Pathet Lào đẩy mạnh các hoạt động tác chiến ở vùng Trung và Hạ Lào, cùng thực hiện thắng lợi chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Lam Sơn 719 của Mỹ-ngụy tại khu vực Đường 9-Nam Lào.
Những thắng lợi về quân sự của quân và dân hai nước trong các Chiến dịch Đường 9-Nam Lào (1971), Chiến dịch Cánh Đồng Chum-Mường Sủi (4/1972), Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum-Xiêng Khoảng (11/1972)… làm tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giành thắng lợi từng bước về quân sự, hỗ trợ cuộc đấu tranh chung của nhân dân nước bạn Lào, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, tiến tới đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt tăng cường” của đế quốc Mỹ ở Lào; góp phần thúc đẩy tình thế, cùng với các đòn tiến công, nổi dậy của quân và dân Nam Bộ, Tây Nguyên trên chiến trường chính Việt Nam làm cho địch thất bại từng bước, tiến tới thất bại hoàn toàn.
Nhờ chuẩn bị chiến trường chu đáo, trong các chiến dịch tiến công trên chiến trường Lào những năm 1962-1972, lực lượng Quân tình nguyện, quân chủ lực của ta và bạn tham gia ngày càng lớn. Ngoài ra, hàng nghìn đội dân quân du kích và dân công đã tham gia phục vụ trên địa bàn chiến dịch.
Chiến trường Lào trở thành chiến trường phối hợp rất đắc lực với chiến trường chính, tạo nên những thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ba nước Việt Nam-Lào-Campuchia.
Thực hiện nhiệm vụ quốc tế trên chiến trường Lào trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, cán bộ, chiến sỹ Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam đã chịu đựng vô vàn khó khăn, gian khổ, hy sinh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, lập nhiều chiến công trên chiến trường Lào.
Nhiều tập thể và cá nhân thuộc Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam đã được Đảng, Nhà nước Lào tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý. Cán bộ, chiến sỹ Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam được nhân dân các bộ tộc Lào tin yêu, coi như con em của bộ tộc mình.
Những đóng góp to lớn đó đã góp phần quan trọng trong xây dựng, củng cố vững chắc tình đoàn kết đặc biệt giữa hai nước và hai quân đội Việt Nam-Lào./.
Ý kiến ()