Những năm tháng không bao giờ quên
- Đại tá Nông Đức Lâm dân tộc Tày là lính "Cụ Hồ" từ thời đánh Mỹ. Vào một ngày trong tháng 12, tháng có những ngày kỷ niệm lớn của đất nước, tôi đến thăm ông tại nhà riêng ở khu Na Đâu, thị trấn Hữu Lũng, huyện Hữu Lũng. Trong phòng khách của gia đình, ông chuyện trò với tôi thật cởi mở, thân tình. Tôi chăm chú lắng nghe ông kể về cuộc đời của mình mà ông gọi là “những năm tháng không bao giờ quên”...
Một thời binh lửa
“… 20 tuổi tôi nhập ngũ làm lính "Cụ Hồ", được biên chế vào Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn 368 Pháo binh, Bộ Tư lệnh 351. Sau một tháng huấn luyện ở ngoài Bắc thì “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Tôi đã được tham gia hàng trăm trận chiến đấu lớn nhỏ, mỗi trận đều có những kỉ niệm riêng nhưng “Chiến dịch Nguyễn Huệ” giải phóng Bình Long năm 1972 là một kỷ niệm đáng nhớ nhất đối với tôi.
Lúc đó, tiểu đoàn (tôi là tiểu đoàn trưởng) được giao nhiệm vụ đánh giữ chốt, giải phóng thị xã An Lộc. Đây là đợt thứ 3, ngày 5/4/1972, tiểu đoàn được sư đoàn điều xuống khu vực Chơn Thành làm nhiệm vụ bắn chi viện cho chốt chặn khu vực Tàu Ô, đường 13. Khu vực này có 2 chốt chặn là 2 quả đồi. Chốt Đông Đường do một đơn vị của Trung đoàn 209, Sư đoàn 7 đảm nhiệm. Sư đoàn trưởng Nguyễn Thới Bưng giao cho tôi làm cụm trưởng pháo binh gồm lực lượng pháo binh của tiểu đoàn và 2 đại đội lựu pháo 105 của Đoàn Biên Hòa tăng cường. Lực lượng phòng không bảo vệ các trận địa pháo là toàn bộ lực lượng súng phòng không của Tiểu đoàn 24, có 18 khẩu 12 ly 7 do đồng chí Tiểu đoàn phó, Tham mưu trưởng phụ trách. Chúng tôi nhận nhiệm vụ bắn chi viện cho lực lượng bộ binh ta từ ngày 8/5/1972 đến ngày 19/7/1972.
Cuộc chiến đấu giữa ta với Sư đoàn 18 ngụy diễn ra vô cùng ác liệt. Ta cùng với địch giành nhau từng tấc đất. Mỗi ngày địch tổ chức tấn công lên chốt ta 7-8 lần, có ngày tới 12 lần, lại được các trận địa pháo lớn 155 ly và 175 ly của địch ở Lai Khê bắn yểm trợ. Giữa hai đợt tấn công là máy bay đến oanh tạc, ném bom, bắn phá như vãi đạn xuống trận địa chúng tôi. Từ đài quan sát tôi thấy, mỗi một trận bom nhiều căn hầm của chúng ta bị sập, cây lát hầm văng lên tơi tả. Thương vong của bộ đội ta quá lớn.
Trong 72 ngày đêm nằm hầm, ăn gạo rang, uống nước hố bom. Trong gian khổ khốc liệt nhưng chúng tôi kiên quyết bám trụ không để mất chốt.
Đến ngày 19/7/1972, địch cho 2 tiểu đoàn bộ binh thiện chiến được máy bay và pháo binh yểm trợ liên tục tấn công lên chốt. Đến đợt thứ 12 thì một đại đội bộ binh (Trung đoàn 3, sư đoàn 9) hết đạn phải dùng cuốc, xẻng, lưỡi lê đánh giáp lá cà với địch. Đến 4 giờ chiều ngày 19/7/1972, đại đội chỉ còn 2 chiến sỹ sống sót, chạy về báo cáo, nói trong nước mắt: “Anh em đã nằm lại ở chốt hết rồi…”.
Đêm 20/7/1972, Trung đoàn 3 được bổ sung quân số, tổ chức tập kích để lấy lại chốt, có lực lượng pháo binh Tiểu đoàn 22 và 2 đại đội pháo binh 105 Đoàn 75 chi viện. Đúng 12 giờ đêm lệnh tấn công bắt đầu. Sau những giờ giao chiến ác liệt, ta lấy lại được 2 chốt. Đêm 21/7/1972, ta lại tổ chức tấn công lần 2 nhưng vẫn không giành được thắng lợi, gần 50% chốt vẫn do địch chiếm giữ. Đến 9 giờ sáng ngày 22/7/1972, địch cho máy bay đến ném bom bắn phá vào trận địa ta rất ác liệt. Một quả bom chùm rơi cách hầm tôi gần lắm. Cây đà hầm bị gãy, sập xuống, tôi bị thương nhiều chỗ trên cơ thể, trên đầu là nặng nhất, máu chảy ròng ròng… Một vài hầm của các chiến sĩ ta bên cạnh cũng sập, một số chiến sĩ hi sinh và bị thương. Ít giờ sau, lực lượng ta được củng cố và tăng cường. Những trận chiến đấu ác liệt lại diễn ra. Quyết tâm của ta là “Một tấc không đi, một ly không rời”, “Bám thắt lưng địch mà đánh”. Cuối cùng chúng tôi đã lấy lại hoàn toàn được chốt.
Nói đến đây ông ngả đầu về phía tôi, đưa tay rẽ mảng tóc cho tôi xem vị trí của mảnh đạn vẫn nằm trong sọ não. Ông bảo, “Những hôm trở trời “nó” cũng hành hạ mình lắm đấy. Nhưng không bỏ đi được, đẩy được “nó” đi thì mình cũng “đi” luôn (bác sỹ bảo thế). Thôi đành sống chung với “nó” vậy.” Rồi ông cười đầy chất lính.
Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất. Theo yêu cầu của quân đội, ông được điều về Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Lạng Sơn làm Chủ nhiệm pháo binh. Đến năm 1984 lại được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng Trường Quân sự tỉnh cho đến khi nghỉ hưu, năm 1990.
Cựu chiến binh mẫu mực
Về địa phương (Khu Na Đâu, Thị trấn Hữu Lũng) được dân mến, Đảng tin, ông lại ra gánh vác các nhiệm vụ: Chủ tịch Hội Cựu chiến binh thị trấn Hữu Lũng; Phó chủ tịch Hội Cựu chiến binh Huyện Hữu Lũng; Ủy viên Ban Chấp hành Hội Người cao tuổi thị trấn Hữu Lũng, Chi hội trưởng Chi hội Người cao tuổi khu Na Đâu. Ở cương vị nào ông cũng làm việc hết mình, xông xáo.
Năm 1995, ông được về dự Đại hội Cựu chiến binh Việt Nam lần thứ nhất ở Hà nội và được báo cáo điển hình về cựu chiến binh làm kinh tế giỏi (mô hình trồng cây ăn quả). Hằng năm Chi hội CCB khu Na Đâu thu nhập được vài chục tấn quả các loại, riêng nhà ông trong vườn có gần trăm cây ăn quả, “mùa nào thức ấy”. Sau đại hội ít ngày, Trung tướng Đàm Ngụy, Thường vụ Hội Cựu chiến binh Việt Nam và Đại tá Đoàn Độ, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh tỉnh cùng một số đoàn đã về thăm gia đình ông để được “mắt thấy tai nghe” những “chiến công” trên mặt trận mới của ông. Ông Đoàn Độ đã đánh giá: “Chi hội Cựu chiến binh khu Na Đâu là lá cờ đầu của Hội Cựu chiến binh tỉnh Lạng Sơn hiện nay về làm kinh tế giỏi…”.
Năm 2010, ông còn được Trung ương Hội Người cao tuổi tặng bằng khen vì có thành tích xuất sắc công tác của Hội ở cơ sở... Tôi nhìn lên bức tường trong phòng ông, ở vị trí trang trọng là những tấm huân chương, huy chương các loại, Bằng Dũng sỹ diệt Mỹ và nhiều bằng khen, giấy khen khác của các ngành, các cấp...
Chuyện đang rôm, chợt giọng ông chùng xuống, xúc động: “Dù là người có công với cách mạng thật đấy nhưng so với sự hy sinh và công lao của đồng đội, đồng bào ta thì công của tôi chỉ là một phần rất nhỏ bé. Tôi sẽ tiếp tục cống hiến làm tròn trách nhiệm của người công dân với Tổ quốc để mãi mãi xứng đáng với danh hiệu “Bộ đội Cụ Hồ”.
Ý kiến ()