Kỳ họp thứ 10: Vì mục tiêu cao nhất cải thiện chất lượng môi trường
Sáng 24/10, các đại biểu Quốc hội sẽ thảo luận trực tuyến về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi).
Theo Chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV, sáng 24/10, các đại biểu Quốc hội sẽ thảo luận trực tuyến về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi).
Dự án Luật gồm 16 Chương, 175 Điều được Chính phủ trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 9 vào tháng 6/2020 và tiếp tục gửi xin ý kiến các đoàn đại biểu Quốc hội cùng một số cơ quan, tổ chức liên quan.
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho biết Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) hướng tới mục tiêu cao nhất là cải thiện chất lượng môi trường, bảo vệ sức khỏe người dân, cân bằng sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển kinh tế bền vững; thể chế hóa kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường một cách tổng thể, toàn diện, đồng bộ và thống nhất, bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả; tạo nên sự thay đổi có tính chất “cách mạng” trong nhận thức, hành vi, ứng xử của người dân với môi trường.
Do liên quan đến các vấn đề mang tính khoa học và có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân, quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vì vậy dù trải qua nhiều hội thảo, hội nghị lấy ý kiến góp ý của các chuyên gia, các phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, dự thảo Luật cho đến nay vẫn có một số điều khoản ở chế độ 2 phương án.
Không để “lọt lưới” dự án đầu tư có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng cho biết, về đánh giá sơ bộ tác động môi trường (Điều 30), dự thảo Luật đưa ra 2 phương án.
Phương án 1, phân loại dự án theo Luật Đầu tư công để xác định đối tượng dự án phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường (bao gồm các dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A, B, C).
Theo phương án này, các dự án đầu tư công dù quy mô nhỏ và không có cấu phần xây dựng cũng phải thực hiện đánh giá sơ bộ tác động môi trường.
Theo phương án 2, dựa trên cơ sở phân loại dự án đầu tư theo mức độ tác động đến môi trường và quy định chỉ các dự án thuộc nhóm I (Nhóm có nguy cơ tác động xấu đến môi trường ở mức độ cao) mới là đối tượng phải thực hiện.
Như vậy, đối tượng dự án phải thực hiện đánh giá sơ bộ tác động môi trường thu hẹp hơn so với Luật Đầu tư công.
Nội dung đánh giá sơ bộ tác động môi trường là một phần trong báo cáo nghiên cứu tiền khả thi hoặc đề xuất dự án đầu tư.
Ở phương án này, theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, thực tế, có nhiều dự án đầu tư công quy mô nhỏ, chỉ mua sắm tài sản, trang thiết bị, hoạt động báo chí nhưng cũng phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường, điều này không thực sự cần thiết.
Rất nhiều dự án phải quyết định chủ trương đầu tư, có đánh giá sơ bộ tác động môi trường nhưng không thuộc đối tượng phải đánh giá tác động môi trường do không có tác động hoặc tác động đến môi trường rất ít theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường hiện hành.
Chủ nhiệm Phan Xuân Dũng cho biết, đa số ý kiến của các đoàn đại biểu Quốc hội đề nghị thực hiện theo Phương án 2 và Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường; Bộ Tài nguyên và Môi trường nhất trí với phương án này.
Trong khi đó, có một số đại biểu lại tán thành với phương án 1, với lập luận không chỉ các dự án nhóm I, nhiều trường hợp các dự án nhóm II, nhóm III cũng có yếu tố tác động xấu đến môi trường nên cần đánh giá toàn diện.
“Có dự án quy mô nhỏ nhưng liên quan đến rừng, nước thải, khí thải, xói mòn đất… cũng có nguy cơ tác động xấu đến môi trường. Vì thế, việc đánh giá nên thực hiện theo Luật Đầu tư công,” Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính-Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải chia sẻ.
Liên quan đến vấn đề đánh giá tác động môi trường, quy định thẩm quyền thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường cũng nhận được hai luồng ý kiến khác nhau.
Tại khoản 3 Điều 36, dự thảo Luật thể hiện quy định này theo 2 phương án.
Cụ thể phương án 1 giao bộ quản lý công trình xây dựng chuyên ngành theo quy định của pháp luật về xây dựng (Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư của mình nhằm phát huy vai trò, năng lực, nguồn lực của các bộ chuyên ngành, thuận lợi cho việc thực hiện thủ tục hành chính liên thông.
Trong phương án 2 theo ý kiến của nhiều đoàn đại biểu Quốc hội là giao cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thẩm định đối với các dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư của các Bộ, cơ quan ngang bộ (trừ Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an).
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ trong quá trình thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng, đa số các đoàn đại biểu Quốc hội cho rằng, nếu quy định bộ quản lý công trình xây dựng chuyên ngành vừa là cơ quan quyết định đầu tư vừa là cơ quan thẩm định, phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo sẽ thiếu khách quan.
Vì thế, việc giao Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thẩm định sẽ nắm rõ mức độ tác động của dự án đến môi trường, kinh tế-xã hội tại địa phương và thống nhất với thẩm quyền, trách nhiệm quản lý xuyên suốt tại địa phương từ thẩm định kết quả báo cáo, cấp giấy phép môi trường, kiểm tra, thanh tra về bảo vệ môi trường của từng dự án.
Băn khoăn việc bỏ giấy phép “con”
Là một trong 5 nội dung nổi bật của dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi), quy định về Giấy phép môi trường theo hướng sử dụng một loại giấy phép môi trường, thay thế 7 loại giấy tờ thủ tục hành chính cấp phép về môi trường được nhiều đại biểu Quốc hội và giới chuyên gia đánh giá cao, thể hiện nỗ lực mạnh mẽ của ngành Tài nguyên-Môi trường trong cải cách thủ tục hành chính lĩnh vực môi trường.
Tuy nhiên, quy định tưởng như sẽ đạt được sự đồng thuận cao này lại vấp phải một vướng mắc tạo ra hai luồng ý kiến khác nhau, đó là giữ hay bỏ giấy phép xả nước thải vào công trình thủy lợi.
Tại dự thảo Luật xin ý kiến các đoàn đại biểu Quốc hội ở Kỳ họp thứ 10, Ban soạn thảo đã trình 2 phương án.
Phương án 1, chỉ dùng một loại giấy phép môi trường trong đó bao gồm cả nội dung cấp phép xả nước thải vào công trình thủy lợi, thay thế 7 loại giấy tờ thủ tục hành chính cấp phép về môi trường, đồng thời quy định trong nội dung giấy phép môi trường đối với trường hợp có xả nước thải vào công trình thủy lợi phải có các yêu cầu bảo đảm an toàn công trình thủy lợi.
Phương án 2, vẫn có giấy phép “Xả nước thải vào công trình thủy lợi” như đã được quy định trong Luật Thủy lợi thông qua tại Kỳ họp thứ 3 (năm 2017) và đang được triển khai thực hiện một cách thuận lợi.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng đa số các đoàn đại biểu Quốc hội đề nghị quy định theo phương án 1.
Phương án này sẽ giải quyết được phần lớn các vướng mắc, bất cập trong thực tế thời gian qua, đáp ứng được yêu cầu của cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, giảm các đầu mối quản lý trong lĩnh vực môi trường.
Nhưng thực hiện phương án này sẽ phải rà soát, quy định chuyển tiếp về giấy phép xả nước thải vào công trình thủy lợi.
Một số đoàn đại biểu Quốc hội đề nghị thực hiện theo phương án 2 với lập luận cho rằng, việc có giấy phép xả nước thải vào công trình thủy lợi là cần thiết để phân định rõ trách nhiệm của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn trong việc đảm bảo chất lượng nguồn nước phục vụ cho tưới tiêu trong nông nghiệp theo quy định của Luật Thủy lợi.
Cũng có ý kiến đề nghị chọn giữa phương án 1 và 2. Theo đó, chỉ tích hợp 7 loại giấy phép môi trường đối với các công trình thủy lợi có tính chất mở, liên thông, còn các công trình thủy lợi được xây dựng khép kín thì thực hiện theo quy định của Luật Thủy lợi.
Nhận định về việc tích hợp giấy phép môi trường, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường Nguyễn Hưng Thịnh cho rằng việc tích hợp này sẽ mang tính đột phá trong việc cải cách thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp, đồng thời cũng tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước ngành tài nguyên và môi trường với cơ quan quản lý ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn trong quá trình kiểm soát dự án đầu tư, từ giai đoạn nghiên cứu khả thi cho đến khi dự án đi vào hoạt động./.
Ý kiến ()