Khó khăn và giải pháp tái cơ cấu đầu tư
Tái cơ cấu đầu tư mà trọng tâm là đầu tư công là một trong ba lĩnh vực quan trọng để cơ cấu lại nền kinh tế. Quá trình thực hiện tái cơ cấu đầu tư sẽ gặp phải không ít khó khăn, thách thức, đòi hỏi sự quyết tâm, kiên định và cứng rắn của các nhà lãnh đạo, các cơ quan quản lý và phân bố vốn đầu tư, đồng thời cả sự thấu hiểu, ủng hộ và đồng thuận của các cấp, các ngành.Khó khăn khi cắt giảm đầu tư côngĐể tái cơ cấu đầu tư, các giải pháp trước mắt tập trung khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán và thiếu đồng bộ đã tồn tại từ nhiều năm nay; phải xử lý được mâu thuẫn hết sức cam go giữa một bên là vốn đầu tư có thể huy động được là rất có hạn và một bên là nhu cầu, yêu cầu vốn đầu tư của các dự án đã quyết định đầu tư là rất lớn. Yêu cầu thực tế đã vượt gấp hai lần so vốn đã bố trí. Như vậy, thay đổi đầu tiên là cơ chế lựa...
Khó khăn khi cắt giảm đầu tư công
Để tái cơ cấu đầu tư, các giải pháp trước mắt tập trung khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán và thiếu đồng bộ đã tồn tại từ nhiều năm nay; phải xử lý được mâu thuẫn hết sức cam go giữa một bên là vốn đầu tư có thể huy động được là rất có hạn và một bên là nhu cầu, yêu cầu vốn đầu tư của các dự án đã quyết định đầu tư là rất lớn. Yêu cầu thực tế đã vượt gấp hai lần so vốn đã bố trí. Như vậy, thay đổi đầu tiên là cơ chế lựa chọn và phân bố vốn đầu tư cho các ngành, địa phương nói chung và các dự án cụ thể nói riêng.
Dự án hiện có sẽ được xem xét, đánh giá và phân thành ba loại. Mục đích cuối cùng là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nhà nước. Tuy vậy, trong khi chưa ban hành được tiêu chí mới, thì phân loại dự án chủ yếu theo tiêu chí thời gian hoàn thành. Dự án càng sớm hoàn thành thì được ưu tiên cao. Giải pháp này về cơ bản coi các dự án hiện hành đều có hiệu quả và về cơ bản mức hiệu quả kinh tế-xã hội là ngang bằng nhau. Dự án sớm hoàn thành sẽ được ưu tiên bố trí vốn. Nhóm hai là các dự án có khả năng chuyển đổi sang thực hiện theo hình thức khác, hoặc huy động các nguồn vốn khác để thực hiện. Nhóm ba sẽ là các dự án đình hoãn. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, các doanh nghiệp đã và đang gặp phải nhiều khó khăn, cả khó khăn về vốn, môi trường kinh doanh mấy năm nay trải qua nhiều biến động, bất ổn kinh tế vĩ mô, thì việc triển khai thực hiện đầu tư đối với nhóm hai cũng hoàn toàn không dễ dàng, và một số lớn dự án nhóm hai cũng sẽ phải chuyển sang nhóm ba.
Trong khi chưa thay đổi phân cấp đầu tư, thì kỷ luật và trách nhiệm giải trình trong phê duyệt và quyết định đầu tư cũng phải thắt chặt hơn. Cụ thể là, cấp có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm về phạm vi, quy mô, mục tiêu, lĩnh vực và chương trình đã được phê duyệt; Chỉ được quyết định đầu tư khi đã xác định rõ nguồn vốn và khả năng cân đối, bố trí đủ vốn hoàn thành dự án đầu tư ở từng cấp ngân sách. Các dự án đã được quyết định đầu tư phải thực hiện đúng theo mức vốn kế hoạch được giao, không làm đọng nợ xây dựng cơ bản. Mọi trường hợp bổ sung vốn, điều chuyển vốn trong nội bộ ngành, lĩnh vực phải được cơ quan có thẩm quyền giao vốn chấp thuận.
Việc thực hiện các giải pháp trước mắt nêu trên sẽ gặp phải những khó khăn, thách thức. Đó là số lượng dự án phải cắt, đình hoãn có thể rất lớn, đòi hỏi sự quyết tâm, kiên định và cứng rắn của các nhà lãnh đạo, cơ quan quản lý và phân bố vốn đầu tư, kể cả sự thấu hiểu, ủng hộ và đồng thuận của các cấp, các ngành, trước hết là các bên có liên quan đến từng dự án đầu tư cụ thể. Bên cạnh đó là khó khăn trong đánh giá, lựa chọn những dự án đầu tư dở dang, và số vốn đã thực hiện. Cách tư duy phổ biến là nếu không tiếp tục đầu tư, thì sẽ mất số vốn đầu tư đã thực hiện, gây lãng phí và mất mát cho xã hội. Đây là điều bình thường, cũng không trái tự nhiên. Nhưng cũng có cách nhìn khác, so sánh giữa cái mất và cái được của việc cắt bỏ dự án, chịu mất đi số vốn đã đầu tư thì có thể, cái giá của cắt bỏ, mất đi số vốn đã đầu tư, có thể còn thấp hơn chi phí xã hội của việc tiếp tục đầu tư. Nhìn trên tổng thể, nếu chúng ta tiếp tục đầu tư, dàn trải, phân tán như trước, thì cái giá phải trả là rất lớn, đến mức nền kinh tế không còn có thể chịu đựng được nữa. Một khó khăn khác cho các bên có liên quan có thể là có những dự án phải cắt bỏ, đình hoãn, không tiếp tục thực hiện, nhưng một phần vốn thực hiện là vốn vay, nay không được phân bố vốn, thì không có nguồn để trả nợ vay.
Huy động vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác
Bên cạnh các giải pháp trước mắt, về trung và dài hạn, phải xây dựng khung hay kế hoạch đầu tư trung hạn để quản lý đầu tư công; phải thay chế độ phân cấp và phối hợp thực hiện đầu tư giữa các địa phương với nhau, giữa trung ương và địa phương và giữa các cơ quan trung ương, để các dự án đầu tư công bổ sung cho nhau, phối hợp với nhau, tận dụng được lợi thế quy mô, qua đó, phát huy được lợi thế của từng địa phương, vùng và ngành kinh tế.
Trong bối cảnh giảm tỷ trọng đầu tư công trong tổng đầu tư xã hội xuống mức hợp lý, cần đi đôi với tăng cường huy động vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác. Đối với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), thu hút FDI cần có chọn lọc, có trọng tâm và trọng điểm hơn. Cần xây dựng tiêu chí cụ thể đánh giá, thẩm định và lựa chọn nhà đầu tư và dự án đầu tư nước ngoài nhằm đạt được các mục tiêu: Thúc đẩy chuyển giao công nghệ, đổi mới và nâng cao năng lực công nghệ; Giảm thâm hụt và tiến tới cân bằng cán cân thương mại; Sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường; Tăng tỷ trọng giá trị gia tăng trong nước. Xây dựng và thực hiện các gói giải pháp ưu đãi và hỗ trợ cụ thể, linh hoạt phù hợp theo thỏa thuận với các tập đoàn đa quốc gia để thu hút đầu tư của họ vào các ngành công nghệ cao, giá trị gia tăng cao, xây dựng mạng sản xuất và chuỗi cung ứng trong nước liên kết với hoạt động sản xuất của các tập đoàn đa quốc gia. Ngoài ra, công tác giám sát, theo dõi và quản lý FDI sau cấp phép cũng cần được củng cố.
Để thu hút và khuyến khích đầu tư, phát triển kinh tế tư nhân trong nước cần có bước đột phá trong cải thiện và nâng cấp chất lượng môi trường kinh doanh. Trước mắt, kiên trì mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, để năm 2012, kinh tế vĩ mô thật sự ổn định, lạm phát giảm xuống một con số, và tạo được niềm tin trong dân chúng và nhà đầu tư. Có như vậy, thì mới có thể giảm được lãi suất, giúp doanh nghiệp tiếp cận được vốn. Không chỉ vậy, cần tiếp tục bồi dưỡng, phục hồi cho cộng đồng doanh nghiệp. Quốc hội nên xem xét, miễn cho doanh nghiệp tất cả các khoản thuế lâu nay đang tạm hoãn và giãn thời hạn nộp và các giải pháp hỗ trợ khác.
Về lâu dài, phải thay đổi được tư duy, giảm dần và tiến tới loại bỏ lối kinh doanh với xu hướng ngắn hạn, đánh quả, thiên về đầu cơ tìm kiếm địa tô, tìm kiếm lợi tức từ bong bóng thị trường hơn là tạo ra giá trị gia tăng mới, thật sự góp phần gia tăng thịnh vượng quốc gia.
Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch, khuyến khích đầu tư và phát triển kinh tế tư nhân trong nước không thể tách rời cải cách, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước (DNNN), mà trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Ngoài việc thay đổi lối kinh doanh như vừa nói trên, thì khu vực DNNN cần thu hẹp về phạm vi ngành nghề, về tiếp cận nguồn lực, về quyền và cơ hội kinh doanh; mở thêm dư địa và không gian cho kinh tế tư nhân phát triển mạnh. Bổ sung, sửa đổi hoặc hướng dẫn cụ thể, chi tiết thực hiện các quy định về hợp nhất, sáp nhập, mua lại công ty, mua bán tài sản công ty, kể cả mua, bán và chuyển nhượng dự án đầu tư, thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp tập trung, tích tụ vốn, mở rộng quy mô kinh doanh, hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân. Bổ sung, sửa đổi chế độ ưu đãi đầu tư khuyến khích tư nhân trong và ngoài nước đầu tư vào các ngành có lợi thế cạnh tranh, có độ nhạy cảm và tác động lan tỏa lớn đến phát triển các ngành có liên quan và toàn bộ nền kinh tế. Các biện pháp ưu đãi đầu tư đều phải có mục tiêu, thời hạn và điều kiện ràng buộc, chế tài cụ thể, rõ ràng. Cần xác định danh mục dự án phát triển cơ sở hạ tầng, trước hết là giao thông, điện và hệ thống kho chứa nông sản… đồng thời, bổ sung, hoàn thiện pháp luật về đầu tư theo hình thức BOT, BT, PPP để huy động hợp lý và hiệu quả đầu tư tư nhân trong nước và nước ngoài phát triển cơ sở hạ tầng quốc gia và địa phương trên cơ sở bảo đảm an ninh tài chính quốc gia, bảo đảm khả năng trả nợ và cân đối được lợi ích hợp lý giữa các bên tham gia.
Theo Nhandan

Ý kiến ()