Kết hợp chặt chẽ tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội
Từ sau Đại hội VI, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước ngày càng đi vào chiều sâu.Trước những vấn đề mới nảy sinh từ cuộc sống, Đảng ta đã rất coi trọng phát triển tư duy lý luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn trong nước, đồng thời mở rộng tầm nhìn ra bên ngoài, chú ý tham khảo kinh nghiệm của thế giới. Qua đó, các đại hội VII, VIII, IX, X và XI của Đảng và nhiều Hội nghị Trung ương trong các nhiệm kỳ đại hội ngày càng xác định rõ hơn mô hình kinh tế tổng quát, mục tiêu chung, cùng với hệ thống các chủ trương và quan điểm có ý nghĩa chỉ đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, bao gồm các lĩnh vực có liên quan đến việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.Quan điểm kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội Về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội từ sau Đại hội VI đến nay,...
Từ sau Đại hội VI, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước ngày càng đi vào chiều sâu.
Trước những vấn đề mới nảy sinh từ cuộc sống, Đảng ta đã rất coi trọng phát triển tư duy lý luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn trong nước, đồng thời mở rộng tầm nhìn ra bên ngoài, chú ý tham khảo kinh nghiệm của thế giới. Qua đó, các đại hội VII, VIII, IX, X và XI của Đảng và nhiều Hội nghị Trung ương trong các nhiệm kỳ đại hội ngày càng xác định rõ hơn mô hình kinh tế tổng quát, mục tiêu chung, cùng với hệ thống các chủ trương và quan điểm có ý nghĩa chỉ đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, bao gồm các lĩnh vực có liên quan đến việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.
Quan điểm kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội
Về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội từ sau Đại hội VI đến nay, một hệ thống các chủ trương và quan điểm lớn mang tầm vóc của những triết lý phát triển có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn nổi bật sau đây:
Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Đây là chủ trương và quan điểm có ý nghĩa bao trùm.
Tôn trọng lợi ích chính đáng của người lao động và các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội.
Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân.
Khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói, giảm nghèo, có chính sách hướng dẫn, hỗ trợ người nghèo vươn lên và phấn đấu trở thành khá giả.
Coi giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng được học hành.
Khoa học và công nghệ cũng là quốc sách hàng đầu, là động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từng bước phát triển kinh tế tri thức.
Thực hiện đồng bộ chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, phấn đấu giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi. Thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe đối với các tầng lớp dân cư, có chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người nghèo.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xem văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế – xã hội.
Chiến lược kinh tế – xã hội đặt con người – với tư cách là mỗi cá nhân và cả cộng đồng – vào vị trí trung tâm, tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và phát huy tốt năng lực của mình.
Thực hiện chủ trương và quan điểm nói trên của Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã thể chế hóa thành hệ thống chính sách, luật pháp, các chương trình, dự án, kế hoạch cụ thể để đưa vào cuộc sống và đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên về mặt xã hội cũng đã bộc lộ những hạn chế của quá trình phát triển. Những năm gần đây tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại, tình trạng tái nghèo còn nhiều, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng thường bị thiên tai, dịch bệnh, và trong mấy năm gần đây lại chịu tác động bởi khủng hoảng kinh tế trên thế giới và lạm phát tăng cao ở trong nước. Xóa đói, giảm nghèo, giúp cho người nghèo vươn lên trung bình và khá giả vẫn còn là một thách thức lớn đối với triển vọng phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng ở nước ta.
Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị đã giảm, nhưng từ đầu năm 2008 đến nay tỷ lệ thất nghiệp lại có xu hướng gia tăng do nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, kinh doanh, thậm chí phải đóng cửa trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Đặc biệt, trong nông thôn những năm gần đây, do hàng trăm nghìn hộ nông dân bị thu hồi đất mà việc hỗ trợ đào tạo nghề chưa đáp ứng, nên tình trạng thiếu việc làm khá nghiêm trọng.
Trong lĩnh vực giáo dục, nội dung chương trình giảng dạy và học tập vừa quá tải vừa lạc hậu; cơ cấu lao động về ngành nghề được đào tạo ra chưa hợp lý, thiếu nhiều thợ bậc cao, nhất là chuyên gia và cán bộ quản lý giỏi. Nhìn chung, chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp, nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Còn chênh lệch khá rõ về điều kiện học tập, cơ sở trường lớp giữa thành thị và nông thôn, miền xuôi và miền núi. Tỷ lệ học sinh là con em các gia đình nghèo và cận nghèo đi học đúng tuổi và học lên các cấp học cao đang có xu hướng giảm sút.
Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân, mạng lưới y tế tuy được mở rộng, nhưng trang bị còn thiếu thốn, phân bố chưa hợp lý, chưa thuận tiện cho dân. Cơ chế chính sách bảo hiểm y tế, thu viện phí và khám, chữa bệnh cho người nghèo cũng còn không ít bất cập. Cùng đó, tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp.
Cơ chế, giải pháp mới trong giai đoạn 2011 – 2020
Các văn kiện Đại hội XI đã nêu nhiều quan điểm chủ trương, chính sách mới để tiếp tục thực hiện tốt hơn việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong giai đoạn 2011-2020. Dưới đây xin nêu một số nội dung về cơ chế, giải pháp góp phần triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về bảo đảm công bằng xã hội trong giai đoạn 2011 – 2020:
Cần quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt hơn quan điểm kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Theo quan điểm đó, chúng ta không chờ đợi khi kinh tế đạt đến trình độ phát triển cao mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Muốn vậy, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới tiến bộ và công bằng xã hội; mỗi chính sách bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội đều phải góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dù trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt hoặc lâu dài. Bất cứ một sự sai sót hay thiên lệch nào trong thiết kế và thực thi các chính sách kinh tế hay các chính sách xã hội đều sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến mục tiêu này hay mục tiêu khác của kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, thậm chí có khi gây tác hại đến cả hai loại mục tiêu.
Đẩy mạnh quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, thực hiện mô hình tăng trưởng mới chủ yếu dựa trên nguồn nhân lực chất lượng cao. Bước vào giai đoạn 2011-2020, không thể tiếp tục kéo dài mô hình tăng trưởng theo chiều rộng vốn được áp dụng trong suốt mấy thập niên qua. Vì đây là mô hình tăng trưởng sử dụng nhiều vốn, công nghệ lạc hậu, với đa số lao động tay nghề thấp chủ yếu làm gia công, lắp ráp, khai thác và bán rẻ tài nguyên thô hoặc sơ chế. Hệ quả là chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế không cao, thu nhập của một bộ phận đáng kể người lao động thấp, đời sống của họ gặp nhiều khó khăn. Do đó, đã đến lúc cần có cơ chế, chính sách và lộ trình thích hợp để tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, với đa số lao động có trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng đi vào lĩnh vực thiết kế, chế tạo thuộc các ngành công nghệ mũi nhọn, làm ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Nhờ vậy mà nền kinh tế nước nhà tăng trưởng nhanh hơn, với chất lượng cao hơn và người lao động cũng có thu nhập xứng đáng để cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của chính mình. Về thực chất, đây là giải pháp đưa tiến bộ và công bằng xã hội chuyển nhập vào bên trong mô hình tăng trưởng mới của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Tạo cơ hội cho các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được tiếp cận bình đẳng các yếu tố 'đầu vào' của sản xuất, kinh doanh, vừa góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vừa thực hiện tốt hơn tiến bộ và công bằng xã hội.
Đối với các kết quả 'đầu ra' của quá trình sản xuất, kinh doanh, cần tiếp tục thực hiện nhất quán nguyên tắc phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Việc phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế được xem là chủ yếu vì chính lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả mới thực sự là nguồn gốc quan trọng nhất tạo ra mọi của cải cho xã hội. Nhưng trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, thì ngoài phân phối theo kết quả lao động, việc phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh cũng phải được coi là công bằng.
Trong việc đầu tư các nguồn lực của Nhà nước cho phát triển đất nước, cần có quy hoạch và kế hoạch cụ thể để cân đối hợp lý mức đầu tư cho các vùng lãnh thổ khác nhau. Việc dành mức đầu tư cao hơn cho các vùng kinh tế động lực là rất cần thiết nhằm tạo ra những 'đầu tàu' tăng trưởng để kéo các 'đoàn tàu' kinh tế Việt Nam đi lên. Mặt khác cần quan tâm đầu tư thỏa đáng cho các vùng khác, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhằm giảm dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, giữ vững ổn định chính trị – xã hội, bảo đảm cho sự phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng gắn liền với tăng trưởng kinh tế của tất cả các vùng miền.
Kết hợp hài hòa giữa việc phân phối lại thông qua hệ thống phúc lợi xã hội với hệ thống an sinh xã hội. Theo chúng tôi hệ thống đó bao gồm: (1) Chính sách ưu đãi xã hội nhằm bảo đảm mức sống ít nhất trên trung bình đối với người có công; (2) Chính sách bảo hiểm xã hội nhằm huy động sự tích góp một phần thu nhập của những người lao động lúc bình thường để dành chi tiêu cho những lúc gặp khó khăn (thất nghiệp, bệnh tật, tuổi già…); (3) Chính sách trợ cấp xã hội để trợ giúp những người yếu thế và dễ bị tổn thương như người tàn tật, người già cô đơn, trẻ em mồ côi lang thang cơ nhỡ…; (4) Chính sách cứu tế xã hội để cưu mang những người bị thiệt hại nặng do thiên tai, địch họa hoặc rủi ro trong cuộc sống; (5) Chính sách tương trợ xã hội nhằm phát huy truyền thống tương thân tương ái, 'lá lành đùm lá rách' trong cộng đồng để giúp nhau vượt qua khó khăn, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống. Việc thực hiện tốt hệ thống chính sách an sinh xã hội nhiều tầng nấc là thước đo quan trọng của một xã hội tiến bộ, công bằng, văn minh, đồng thời là nhân tố quan trọng khơi dậy tính tích cực, sự hăng hái của các tầng lớp nhân dân trong sản xuất, kinh doanh để thoát đói vượt nghèo, vươn lên làm giàu cho mình và cho đất nước.
Theo Nhandan

Ý kiến ()