Kế hoạch nghi binh hoàn hảo khiến quân địch đánh mất Buôn Ma Thuột
Kế hoạch nghi binh hoàn hảo của quân Giải phóng khiến quân địch đánh mất Buôn Ma Thuột và chúng phải rút khỏi Tây Nguyên trong hoảng loạn.
Kế hoạch nghi binh hoàn hảo
Thượng tướng, Tiến sĩ Lê Huy Vịnh - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng nhắc nhớ những ngày tháng lịch sử cuối năm 1974, Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng hạ quyết tâm động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta ở cả hai miền Nam Bắc mở cuộc tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 - 1976; đồng thời khẳng định, nếu thời cơ đến thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.
Bộ Chính trị thông qua kế hoạch tác chiến chiến lược do Bộ Tổng tham mưu soạn thảo (trải qua 8 lần xin ý kiến chỉnh sửa), thống nhất chọn Nam Tây Nguyên là hướng tiến công chủ yếu, bởi đây là địa bàn quan trọng về chiến lược nhưng bố phòng của địch có nhiều sơ hở.
Quán triệt nghị quyết Bộ Chính trị đề ra, ngày 9/1/1975, Thường trực Quân ủy Trung ương họp bàn, quyết định mở Chiến dịch Tây Nguyên, lấy Nam Tây Nguyên là hướng tiến công chủ yếu, mục tiêu then chốt mở đầu là thị xã Buôn Ma Thuột.
Sau thời gian tích cực triển khai công tác chuẩn bị, thực hiện nghi binh và tác chiến tạo thế, ngày 4/3/1975, Chiến dịch Tây Nguyên bắt đầu.
Bộ đội tiến công trong Chiến dịch Tây Nguyên. (Ảnh Bảo tàng Đắk Lắk)
Theo Đại tá PGS, TS Hoàng Xuân Nhiên, chiến dịch Tây Nguyên - mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, để lại nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật quân sự. Trong đó, nghi binh lừa địch tạo lập thế ta - phá thế địch, điều khiển địch theo ý định của ta là nét đặc sắc nổi bật.
Để lập thế ta - phá thế địch, tạo thuận lợi cho chiến dịch Tây Nguyên toàn thắng, Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo Quân đoàn 2 và Quân đoàn 4 tăng cường, củng cố thế bố trí trên hai địa bàn chiến lược quan trọng của địch là Huế - Đà Nẵng và đông bắc Sài Gòn, buộc đối phương phải để Sư đoàn lính thủy đánh bộ giữ Sài Gòn và Sư đoàn dù giữ Đà Nẵng.
"Rõ ràng hình thế dàn trận chiến lược kìm địch ở Sài Gòn và Huế - Đà Nẵng cũng là một hành động nghi binh chiến lược cho đòn Tây Nguyên - Buôn Ma Thuột”, PGS Hoàng Xuân Nhiên chia sẻ.
Đồng thời, việc đẩy mạnh các hoạt động tác chiến làm cho địch càng khó phán đoán đâu là hướng chiến lược chủ yếu của ta. Các hoạt động nghi binh chiến lược đó, đã góp phần đánh lừa, buộc địch căng kéo, phân tán chủ lực ra hai đầu Nam - Bắc chiến tuyến.
Trong khi đó, ở chiến trường Tây Nguyên, để bảo đảm cho trận then chốt mở đầu chiến dịch, Bộ Tổng tư lệnh và Bộ chỉ huy Mặt trận Tây Nguyên tích cực sử dụng Sư đoàn 3, Trung đoàn 95A, Trung đoàn 25 cùng bộ đội địa phương trên địa bàn đánh cắt giao thông trên các trục đường huyết mạch (19, 21 và 14) chia cắt địch ở Tây Nguyên với đồng bằng ven biển và Bắc với Nam Tây Nguyên.
Đặc biệt, để tạo thuận lợi cho trận then chốt quyết định tiến công vào Buôn Ma Thuột, Bộ Tư lệnh chiến dịch tích cực lừa địch bằng một kế hoạch nghi binh hoàn hảo.
Sơ đồ trận đánh Buôn Ma Thuột ( Nguồn: Bách Khoa toàn thư Quân sự Việt Nam, Quyển 1: Lịch sử Quân sự (Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân - năm 2015)
Trong đó, Chỉ huy Sư đoàn 10 sử dụng pháo binh bắn vào Kon Tum, đánh nhỏ quanh thị xã; Sư đoàn 320 đánh nhỏ trên Đường 14, sử dụng pháo binh bắn vào La Sơn, Thanh An; Trung đoàn 95 đánh vào từng tốp xe của địch trên Đường 19; Trung đoàn Đặc công 198 tập kích kho xăng Pleiku...
Đồng thời, lực lượng của ta bí mật đưa Sư đoàn 968 từ Nam Lào về Tây Nguyên thay thế vị trí của Sư đoàn 10, Sư đoàn 320; còn hai sư đoàn (10 và 320) khi hành quân vào Đắc Lắk đã để lại toàn bộ cụm điện đài và báo vụ viên ở vị trí cũ, hằng ngày vẫn tiếp tục phát đi các bức điện “báo cáo tình hình như thường lệ”. Sư đoàn 968 nghi binh bằng cách tiếp tục duy trì hoạt động như của Sư đoàn 10, Sư đoàn 320 trên các hướng đó.
Cùng với hoạt động nghi binh của Sư đoàn 968, từ tháng 9/1974, Bộ Tư lệnh chiến dịch sử dụng Trung đoàn công binh 7 kết hợp với dân công các huyện 40, 67, 30, 80, Diên Bình, Tân Cảnh của Kon Tum và các huyện 4, 5 của Gia Lai rầm rộ làm đường giả hướng vào thị xã Kon Tum và Pleiku.
Ta giữ được bí mật đến mức người dân trên địa bàn cũng tưởng bộ đội sắp đánh Kon Tum. Các hoạt động đó đã làm cho địch càng phán đoán ta chuẩn bị đánh Kon Tum. Ngay cả khi Bộ Tư lệnh mặt trận giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 968 đánh đồn Tầm và quận lỵ Thanh An, đồng chí Thượng tá Thanh Sơn - Tham mưu phó sư đoàn còn hỏi lại “Sư đoàn 968 đánh thật hay là đánh giả”...
Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 cùng lực lượng binh chủng bí mật cơ động xuống Nam Tây Nguyên... Để lừa địch, trước khi hành quân chính thức, Sư đoàn 10 dành 15 ngày cho các đơn vị di chuyển theo kiểu đèn cù, thay đổi chỗ ở cho nhau nhiều lần. Sau đó cơ động bằng ô tô, một mạch vào Đức Lập.
Đến tháng 2/1975, các hoạt động nghi binh “hư hư, thật thật” của ta đã làm cho địch “bán tín, bán nghi”, chúng vẫn chưa phát hiện rõ rệt ý định chiến dịch, chiến lược của ta; thậm chí, đến ngày ta nổ súng, địch vẫn không biết…
Có thể nói, các hoạt động nghi binh rầm rộ để điều địch lên hướng Bắc, đồng thời bí mật cơ động lực lượng về hướng nam đã góp phần quan trọng làm địch lầm tưởng ta đang chuẩn bị tiến công vào Kon Tum hoặc Pleiku và “gần như chúng loại trừ khả năng Buôn Ma Thuột bị tiến công khỏi kế hoạch tác chiến trong năm 1975 của Quân khu 2”.
Tuy nhiên có lúc địch đã phán đoán ta sẽ đánh Đức Lập, nhất là khi tình báo địch phát hiện Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 đã ăn Tết trước, đang vào Nam Tây Nguyên.
Hay khi một chiến sỹ của ta đào ngũ đã khai với địch: “Sư đoàn 10 đang chuẩn bị đánh Đức Lập, Sư đoàn 320 đang ở Ea H’Leo chuẩn bị đánh Thuần Mẫn, một lực lượng khác đang chuẩn bị đánh Buôn Ma Thuột, nhưng tình báo Mỹ lại khẳng định Sư đoàn 10 và 320 vẫn còn ở chỗ cũ”.
Ngay lập tức, quân ta cho phát một bức điện gửi các đơn vị với nội dung “địch đã bị mắc lừa, cho rằng ta sẽ đánh Buôn Ma Thuột nên đã điều quân xuống phía Nam” …
Những thông tin có nội dung trái ngược nhau làm cho tướng Phạm Văn Phú (Tư lệnh quân đoàn II quân đội Việt Nam Cộng hòa) hoang mang, không biết nên tin lời khai của tên đào ngũ, hay tin vào nguồn tin kỹ thuật vô tuyến điện do chúng thu được...
Không chỉ có vậy, nghệ thuật nghi binh, điều địch của ta thành công đến mức khi chiến dịch tiến công Tây Nguyên đã bắt đầu, mà đến ngày 6/3, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn và CIA vẫn khẳng định: “Hướng đối phó chính vẫn là Pleiku và Kon Tum. Chúng cho rằng hành động cắt Đường số 19, 14 và 21 chỉ là hoạt động phối hợp của ta”.
Thậm chí, khi ta nổ súng tiến công quận lỵ Thuần Mẫn (8/3) và đánh quận lỵ Đức Lập (9/3) tức là thời điểm Buôn Ma Thuột đã bị phơi ra trước mũi súng của bộ đội ta mà tướng Phạm Văn Phú vẫn không đoán biết được ý đồ của ta. Chỉ đến 4h ngày 10/3/1975, khi xe tăng của ta đã tiến vào Buôn Ma Thuột, tướng Phạm Văn Phú mới biết Buôn Ma Thuột là mục tiêu chính của ta, thì đã quá muộn.
Quân ta tấn công sở chỉ huy Sư bộ 23 Quân đội Việt Nam cộng hòa tại Buôn Ma Thuột (Ảnh Bảo tàng Đắk Lắk)
Trong Chiến dịch Tây Nguyên Xuân 1975, quân ta thực hiện cả một giai đoạn nghi binh tạo thế đầy sáng tạo, theo một kế hoạch công phu, bài bản: Từ đánh giả như thật, tung tin thất thiệt, tổ chức mít tinh hoan nghênh bộ đội về giải phóng Kon Tum - Pleiku đến việc tạo những sơ hở giả, tiến hành công tác thiết bị chiến trường và điều động lực lượng úp úp mở mở… khiến cho địch ngày càng tin chắc là ta tiến công Bắc Tây Nguyên, góp phần quan trọng cho trận then chốt mở đầu thắng lợi.
Những nét đặc sắc về nghệ thuật nghi binh tạo thế trên đã cho ta nhận thức một cách đầy đủ hơn: Nghi binh và tạo thế là hai lĩnh vực riêng biệt, nhưng có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau.
Nghi binh là hoạt động giả được tiến hành như thật để lừa địch; Tạo thế là hoạt động thật được tiến hành như giả nhằm làm suy yếu kẻ thù.
Mục đích của nghi binh và tạo thế đều nhằm tạo ra điều kiện thuận lợi cho ta cơ động và bố trí lực lượng, cũng như có được ưu thế hơn địch... Vì vậy, trong hoạt động nghi binh và chiến đấu tạo thế, rất cần có sự kết hợp chặt chẽ, làm cho địch khó phân biệt đâu là thật, đâu là giả; tạo thời cơ có lợi cho các hoạt động tác chiến của ta.
Video: Kế hoạch nghi binh trong chiến dịch Tây Nguyên (Nguồn: VTV)
Hàng loạt các mưu mẹo chiến lược
Ngoài chiến thuật nghi binh, trong trận Buôn Ma Thuột (tháng 3/1975), quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (QGP) đã tấn công bất ngờ vào các vị trí quan trọng của quân đội Việt Nam Cộng hòa tại Buôn Ma Thuột. Các lực lượng của quân Giải phóng đã tổ chức các cuộc tấn công đồng loạt vào các mục tiêu như căn cứ quân sự, sân bay và các điểm phòng thủ của địch, khiến chúng không kịp chuẩn bị và phản ứng.
Điều này làm cho quân đội Việt Nam Cộng hòa không thể kịp triển khai lực lượng để đối phó hiệu quả với các cuộc tấn công từ nhiều hướng. Chiến thuật tạo áp lực liên tục và không cho đối phương thời gian phản ứng cũng được Quân giải phóng áp dụng nhuần nhuyễn.
Sau khi tấn công vào Buôn Ma Thuột, quân Giải phóng tiếp tục duy trì áp lực liên tục, không cho quân đội Việt Nam Cộng hòa có thời gian tái tổ chức phòng thủ. Các đơn vị bộ binh và xe tăng của quân Giải phóng luôn di chuyển nhanh chóng, phối hợp chặt chẽ và tấn công vào các vị trí yếu của đối phương. Điều này khiến quân đội Việt Nam Cộng hòa không thể tổ chức phòng thủ hiệu quả, khiến họ rơi vào tình trạng bị động và hoang mang.
Quân Giải phóng cũng đã áp dụng chiến thuật vây hãm rất hiệu quả đối với các lực lượng quân của địch. Những đơn vị quân Giải phóng tấn công mạnh mẽ và chiếm các điểm then chốt, đồng thời cắt đứt các tuyến đường tiếp tế và rút lui của quân Sài Gòn.
Khi quân địch bị vây hãm và cắt đứt liên lạc, họ không thể tổ chức phòng thủ hoặc phản công, tạo cơ hội cho quân Giải phóng tiếp tục tấn công và chiếm giữ các vị trí quan trọng.
Những hình ảnh hào hùng của quân Giải phóng khi tiến đánh vào thị xã Buôn Ma Thuột.
Ngoài ra, quân Giải phóng cũng áp dụng chiến thuật "đánh nhanh, thắng nhanh", triển khai các đơn vị cơ động, nhanh chóng tiếp cận các mục tiêu quan trọng, đồng thời tận dụng các đơn vị đặc công và bộ đội đột kích để phá hủy các cơ sở vật chất, gây rối loạn và làm suy yếu khả năng phòng thủ của quân địch.
Đặc biệt, việc chiếm được sân bay Buôn Ma Thuột và các tuyến đường huyết mạch đã làm suy yếu nghiêm trọng khả năng phản công và tổ chức lại của chúng. Quân Giải phóng đã phối hợp tác chiến chặt chẽ giữa bộ binh, xe tăng, pháo binh và không quân.
Lực lượng bộ binh mở đường, xe tăng và pháo binh chi viện hỏa lực, trong khi không quân hỗ trợ việc cắt đứt đường tiếp tế và gây áp lực lên các vị trí phòng thủ của đối phương.
Các cuộc tấn công kết hợp này khiến quân địch không thể phản ứng kịp thời, đồng thời làm suy yếu tinh thần chiến đấu của các đơn vị của chúng.
Quân Giải phóng cũng rất chú trọng đến chiến lược tâm lý chiến, tạo ra áp lực tâm lý mạnh mẽ đối với quân đội Việt Nam Cộng hòa. Các chiến dịch tuyên truyền, cùng với sự bất ngờ trong các đợt tấn công, khiến quân địch hoang mang và suy giảm ý chí chiến đấu.
Các chiến thắng liên tiếp của quân Giải phóng, đặc biệt là việc chiếm Buôn Ma Thuột, đã làm cho quân địch cảm thấy không còn hy vọng chiến thắng, dẫn đến sự hoảng loạn và rút lui.
Ý kiến ()