Hỗ trợ phục hồi, tạo đòn bẩy cho tăng trưởng
Đại dịch Covid-19 đã đặt ra những thách thức, khó khăn chưa từng có. Việt Nam đứng trước yêu cầu phục hồi nền kinh tế một cách vững chắc trong bối cảnh thích ứng linh hoạt với đại dịch.
Trong bối cảnh này, chính sách tiền tệ đã được điều hành một cách chủ động, linh hoạt, thận trọng, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu, duy trì ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối, hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần phục hồi tăng trưởng kinh tế.
Năm 2021 được đánh giá là một năm đặc biệt đối với nền kinh tế, khi đan xen trong đó là khó khăn, thách thức và cả cơ hội. Việt Nam đã có khởi đầu khá tốt đẹp vào quý I với sự tăng trưởng kinh tế tích cực nhờ xuất khẩu phục hồi mạnh mẽ. Nhưng với những tác động khó lường của biến chủng Delta, nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước buộc phải áp dụng các biện pháp giãn cách xã hội đã tác động mạnh đến nền kinh tế, làm cho GDP quý III giảm sâu.
Bước sang quý IV, bức tranh kinh tế đã xuất hiện trở lại nhiều điểm sáng khi các địa phương nới lỏng giãn cách, doanh nghiệp dần phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, đà tăng trưởng liệu có quay trở lại bền vững hay không, vẫn khó có câu trả lời chắc chắn khi đại dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp và sự xuất hiện của biến chủng Omicron đang tạo ra những bất ổn mới.
Hỗ trợ đà phục hồi trong bối cảnh dịch bệnh
Bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ, tình hình dịch Covid-19 trong nước và quốc tế, năm 2021, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chủ động điều hành đồng bộ các công cụ và giải pháp phù hợp nhằm ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối, kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng theo định hướng đề ra. Điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở phù hợp với diễn biến thị trường, hỗ trợ ổn định thị trường tiền tệ. Trong năm 2021, thanh khoản thị trường tiền tệ nhìn chung khá dồi dào, hỗ trợ các tổ chức tín dụng giảm chi phí vốn để có điều kiện tích cực giảm lãi suất cho vay hỗ trợ nền kinh tế.
Đối với lãi suất, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành lãi suất phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát, diễn biến thị trường và mục tiêu chính sách tiền tệ, tạo điều kiện giảm chi phí vốn cho người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế. Cụ thể, sau khi giảm ba lần lãi suất điều hành với mức giảm 1,5-2%/năm trong năm 2020 và là một trong những ngân hàng trung ương giảm lãi suất mạnh nhất khu vực, trong năm 2021, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giữ nguyên các mức lãi suất điều hành, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với chi phí thấp; tiếp tục chỉ đạo tổ chức tín dụng chủ động cân đối khả năng tài chính để áp dụng lãi suất cho vay hợp lý; triệt để tiết giảm chi phí hoạt động, tập trung mọi nguồn lực để giảm lãi suất cho vay.
Kết quả, mặt bằng lãi suất cho vay sau khi giảm 1%/năm trong năm 2020 và xu hướng giảm lãi suất này được duy trì trong năm 2021 với mức giảm thêm khoảng 0,77%/năm. Các tổ chức tín dụng cũng đã miễn, giảm, hạ lãi suất cho hơn 1,94 triệu khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 với dư nợ hơn 3,81 triệu tỷ đồng. Lũy kế từ ngày 23/1/2020 đến cuối tháng 11/2021, tổng số tiền lãi các tổ chức tín dụng đã miễn, giảm, hạ cho khách hàng khoảng 32.600 tỷ đồng.
Công tác điều hành tỷ giá tiếp tục bảo đảm linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường trong và ngoài nước, các cân đối vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu chính sách tiền tệ; tăng dự trữ ngoại hối nhà nước khi điều kiện thị trường thuận lợi. Tỷ giá VND/USD tiếp tục ổn định, trong khi nhiều đồng tiền trong khu vực mất giá khá lớn so với USD (baht Thái Lan giảm 11,2%, ringgit Malaysia giảm 2,8%, đô-la Singapore giảm 1,95%…). Thanh khoản thị trường thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy đủ, kịp thời.
Đối với công tác tín dụng, trong bối cảnh khó khăn do tác động của đại dịch Covid-19, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành tín dụng theo chỉ tiêu định hướng, gắn với nâng cao chất lượng tín dụng, xử lý nợ xấu. Theo đó, trên cơ sở mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2021 khoảng 6,5% và lạm phát khoảng 4% được Quốc hội và Chính phủ đề ra cho năm 2021, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã xây dựng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng cả năm 2021 khoảng 12%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế. Thông báo và định kỳ rà soát, linh hoạt điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với từng tổ chức tín dụng trên cơ sở tình hình hoạt động, khả năng tài chính và khả năng tăng trưởng tín dụng lành mạnh, nhất là vào các lĩnh vực ưu tiên; trong đó ưu tiên tổ chức tín dụng giảm mặt bằng lãi suất cho vay, để các tổ chức tín dụng có thêm dư địa đẩy mạnh tín dụng hỗ trợ nền kinh tế.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục chỉ đạo tổ chức tín dụng tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, tập trung tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ. Kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng khoán, các dự án BOT, BT giao thông; tăng cường quản lý rủi ro đối với cho vay phục vụ nhu cầu đời sống, tín dụng tiêu dùng. Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, góp phần hạn chế tín dụng đen…
Với các giải pháp đồng bộ đó, tín dụng toàn nền kinh tế tăng ngay từ đầu năm 2021 và cao hơn so với cùng kỳ năm 2020, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, cho dù chịu ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch bệnh. Tính đến cuối tháng 11/2021, tín dụng tăng 10,77% so cuối năm 2020; ước tính cả năm tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đạt chỉ tiêu như đã đề ra.
Đại dịch Covid-19 ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh và điều kiện tài chính của doanh nghiệp, người dân. Do đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tái cấp vốn đối với tổ chức tín dụng để hỗ trợ thanh khoản, cho vay theo các chương trình, lĩnh vực đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và hỗ trợ xử lý nợ xấu. Cụ thể, đối với chương trình cho vay hỗ trợ trả lương ngừng việc và phục hồi sản xuất, Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời triển khai các gói tái cấp vốn đối với Ngân hàng Chính sách xã hội lãi suất 0%/năm, không yêu cầu tài sản bảo đảm để ngân hàng này cho người sử dụng lao động vay trả lương cho người lao động bị ngừng việc và phục hồi sản xuất.
Trong năm 2021, thực hiện Nghị quyết 68/NQ-CP ngày 1/7/2021 của Chính phủ, gói tái cấp vốn với quy mô tối đa 7.500 tỷ đồng đã được triển khai và đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã giải ngân tái cấp vốn hơn 673 tỷ đồng đối với Ngân hàng Chính sách xã hội để cho người sử dụng lao động vay. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cũng triển khai gói cho vay tháo gỡ khó khăn cho Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines). Theo đó, tái cấp vốn đối với các tổ chức tín dụng sau khi cho Vietnam Airlines vay với tổng số tiền tái cấp vốn tối đa là 4.000 tỷ đồng, lãi suất tái cấp vốn là 0%/năm, không có tài sản bảo đảm, thời hạn của chương trình tối đa đến ngày 31/12/2021.
Tạo sức bật cho nền kinh tế sau đại dịch
Nền kinh tế năm 2021 đã phải đối mặt với những khó khăn chưa từng có khi đại dịch Covid-19 tái bùng phát. Nhưng với quyết tâm cao của Quốc hội, Chính phủ để vừa thích ứng an toàn linh hoạt trong phòng, chống dịch bệnh, vừa khôi phục phát triển kinh tế, hoạt động sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp đang dần trở lại nhịp bình thường. Trên thị trường tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục chính sách tiền tệ nới lỏng. Việc duy trì chính sách nới lỏng này được đánh giá là cần thiết trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam chỉ mới ở giai đoạn đầu phục hồi, phần lớn doanh nghiệp vẫn có nhu cầu vốn rất lớn để khôi phục lại các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Tuy nhiên bước sang năm 2022, trong bối cảnh như dự báo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF): kinh tế thế giới tăng trưởng 4,9%; giá cả hàng hóa cơ bản và lạm phát thế giới dự báo giữ ở mức cao do tác động từ thiếu hụt nguồn cung. Cùng với đó, chính sách tiền tệ tại các nền kinh tế chủ chốt dự kiến giảm dần hỗ trợ, nhiều quốc gia tăng lãi suất để kiềm chế đà tăng lạm phát…
Các yếu tố này cùng với dịch bệnh diễn biến phức tạp khiến quá trình phục hồi của kinh tế thế giới trở nên khó lường và nhiều rủi ro, bất trắc. Trong khi đó tại Việt Nam, dịch bệnh tuy đang dần được kiểm soát với việc đẩy nhanh độ bao phủ tiêm vắc-xin, nhưng với độ mở của nền kinh tế lớn, cùng với xu hướng phục hồi kinh tế, áp lực lạm phát cũng có chiều hướng tăng. Điều này đặt công tác điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước đối diện với không ít thách thức.
Trước mắt, dịch Covid-19 đã tác động tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế. Doanh nghiệp gặp khó khăn trong vay trả nợ ngân hàng, khiến rủi ro nợ xấu phát sinh, gia tăng nếu khó khăn kéo dài và không được tháo gỡ kịp thời. Theo chuyên gia kinh tế, TS Võ Trí Thành, để ứng phó với nợ xấu, các tổ chức tín dụng đã phải trích lập dự phòng rủi ro nhiều hơn, khiến năng lực tài chính bị suy giảm và điều này tất yếu ảnh hưởng tới khả năng hỗ trợ doanh nghiệp của các ngân hàng.
“Bên cạnh đó, áp lực lạm phát năm 2022 cũng lớn hơn, nên điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước cần cẩn trọng. Theo đó, nếu nới lỏng quá sẽ dễ làm tăng rủi ro tài chính và tạo áp lực đến lạm phát, nhưng nếu thắt chặt quá thì quá trình phục hồi kinh tế có thể không đạt kế hoạch”- TS Võ Trí Thành nhấn mạnh.
Lạm phát tăng nhanh đã khiến nhiều Ngân hàng Trung ương trên thế giới bắt đầu thu hẹp lại các biện pháp nới lỏng tiền tệ. Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, từ đầu năm đến nay, thế giới đã chứng kiến 93 lượt tăng lãi suất của các Ngân hàng Trung ương, trong đó riêng từ tháng 9/2021 đến nay đã chứng kiến 50 lượt tăng lãi suất…
Năm nay, lạm phát được dự báo tiếp tục được kiểm soát ở mức dưới 4% như mục tiêu đã đề ra. Nhưng sang năm 2022, áp lực gia tăng lạm phát xuất hiện khiến các nhà quản lý, điều hành không thể chủ quan. Một số tổ chức quốc tế dự báo, lạm phát của Việt Nam trong năm tới khoảng 3,5-4%, rủi ro lạm phát vượt 4% phụ thuộc vào giá cả hàng hóa thế giới.
Do vậy, để hỗ trợ nền kinh tế phục hồi và tạo đòn bẩy cho tăng trưởng kinh tế sau đại dịch, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt; đẩy mạnh các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị ảnh hưởng dịch; đồng thời theo dõi sát tình hình để đưa ra những chính sách ứng phó kịp thời, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu Quốc hội đặt ra; cân đối điều hành lãi suất trong tương quan với lạm phát và lợi ích của người gửi tiền; tiếp tục duy trì ổn định mặt bằng lãi suất, nếu điều kiện cho phép có thể xem xét điều chỉnh giảm lãi suất ở mức phù hợp.
Ý kiến ()