Góp phần hoàn thiện Quy hoạch điện VIII
Trong tương lai, phát triển ngành điện Việt Nam sẽ ngày càng gặp nhiều thách thức lớn, nhất là để đáp ứng nhu cầu điện đang và còn tiếp tục tăng trưởng ở mức cao. Chính vì vậy, việc xây dựng Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch điện VIII – QHÐ8) là rất cần thiết, đồng thời cũng được đông đảo các ngành, các cấp, các chuyên gia, doanh nghiệp và người dân quan tâm.
Dự thảo lần 1 của Ðề án QHÐ8 đã nhận được nhiều ý kiến góp ý xác đáng, giúp rà soát, chỉnh sửa và hoàn thiện ra phương án tối ưu nhất để có thể sớm trình xin ý kiến Thủ tướng Chính phủ.
Ðánh giá lại nhu cầu phụ tải
Trong Dự thảo lần 1 của Ðề án QHÐ8, kịch bản cơ sở dự báo tăng trưởng điện thương phẩm giai đoạn 2021 – 2025 sẽ là 9,1%, giai đoạn 2026 – 2030 là 7,9%. Góp ý về vấn đề này, các đơn vị gồm Tổ giúp việc Bộ trưởng Công thương về QHÐ8, Tổng công ty Truyền tải điện quốc gia (EVNNPT), Cục Công nghiệp (Bộ Công thương) đều thống nhất cho rằng, mức dự báo như vậy tương đối cao so các kịch bản phát triển kinh tế – xã hội, dẫn đến yêu cầu đầu tư nguồn và lưới điện truyền tải cũng sẽ tăng cao. Thực tế thời gian qua, tăng trưởng điện thương phẩm đang có xu hướng giảm dần, từ 11%/năm giai đoạn 2011 – 2015 xuống còn 8,5%/năm giai đoạn 2016 – 2020. Do đó, đơn vị soạn thảo cần xem xét lại tốc độ tăng trưởng phụ tải phù hợp để có kịch bản cân đối cung cầu và nhu cầu đầu tư nguồn, lưới phù hợp. Về vấn đề này, đơn vị tư vấn (ÐVTV) đã tiếp thu và cũng có giải trình cụ thể. Theo đó, dự báo nhu cầu điện trong QHÐ8 dựa vào thay đổi cơ cấu trong dự báo kinh tế. Cụ thể, giai đoạn 2021 – 2030, tăng trưởng công nghiệp vẫn dẫn dắt tăng trưởng kinh tế. Chỉ từ giai đoạn sau 2035, tăng trưởng dịch vụ mới cao hơn và dẫn dắt tăng trưởng GDP. Do đó, ở giai đoạn 2021 – 2030, cường độ điện trên GDP vẫn chưa có mức giảm đáng kể. Bên cạnh đó, tăng trưởng nhu cầu điện giai đoạn 2016 – 2020 giảm xuống 8,5% là do tác động của dịch Covid-19 đến nhu cầu sử dụng điện năm 2020 (tăng trưởng điện thương phẩm chỉ đạt 3,1%). Còn xét riêng giai đoạn 2016 – 2019, điện thương phẩm vẫn tăng ở mức trung bình 10,1%/năm. Vì vậy, dự báo mức tăng trưởng nhu cầu điện thương phẩm giai đoạn 2021 – 2025 là 9,1%, 2026 – 2030 là 7,9% là đã có sự giảm tốc phù hợp.
Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam (EVN) cho rằng, cần rà soát, cập nhật mục tiêu tiết kiệm năng lượng theo Nghị quyết 55-NQ/TW, quy đổi các chỉ tiêu này sang lĩnh vực điện năng để làm căn cứ dự báo phụ tải cũng như lựa chọn biên độ giữa các kịch bản dự báo nhu cầu phụ tải. Cụ thể, theo Nghị quyết 55-NQ/TW, tỷ lệ tiết kiệm năng lượng trên tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng so với kịch bản phát triển bình thường đạt khoảng 7% vào năm 2030 và khoảng 14% vào năm 2045. ÐVTV giải trình: Tỷ lệ tiết kiệm trong Nghị quyết là nhu cầu năng lượng cuối cùng, bao gồm cả các dạng năng lượng khác ngoài điện. Do đó, việc áp tỷ lệ này vào tiết kiệm điện là không chính xác. Trên thực tế, để tăng hiệu quả sử dụng, xu thế sử dụng năng lượng sẽ có sự chuyển dịch sang sử dụng điện cho đến khi các nhu cầu sử dụng bão hòa. Chuyển dịch sang sử dụng điện về cơ bản cũng là giải pháp tiết kiệm năng lượng. Dự báo trong QHÐ8 đã sử dụng mục tiêu tiết kiệm điện 2%/năm cho giai đoạn 2020 – 2025 theo Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày 7-5-2020 của Thủ tướng Chính phủ, tăng dần lên mức 4% vào năm 2045.
Xem xét quy mô nguồn năng lượng tái tạo
Chương trình phát triển nguồn điện của dự thảo đánh giá, các nguồn điện gió và năng lượng mặt trời sẽ phát triển mạnh trong các năm tới, đạt tỷ trọng tới 53% vào năm 2045 (bao gồm cả thủy điện lớn). Góp ý cho vấn đề này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ, EVNNPT và Tổng công ty Ðiện lực miền trung (EVNCPC) chung ý kiến: Nguồn năng lượng tái tạo (NLTT) như điện mặt trời, điện gió có tính ổn định không cao, phụ thuộc nhiều vào tình hình thời tiết. Không những vậy, thời gian qua, điện gió và điện mặt trời phát triển nhanh, nhưng cũng xuất hiện không ít tồn tại liên quan đến giá điện, rào cản kỹ thuật, việc đấu nối vào hệ thống điện quốc gia,… Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo đề án rà soát lại tỷ lệ nguồn NLTT các giai đoạn đến năm 2030 và năm 2045 phù hợp với mục tiêu đặt ra tại Nghị quyết số 55-NQ/TW quy định “tỷ lệ các nguồn NLTT trong tổng cung năng lượng sơ cấp đạt khoảng 15 đến 20% vào năm 2030; 25 đến 30% vào năm 2045”. Ngoài ra, cần xem xét hạn chế việc phát triển NLTT với tốc độ và quy mô quá lớn, đã và sẽ ảnh hưởng tiêu cực việc vận hành của hệ thống điện nói chung, việc đầu tư và vận hành hiệu quả lưới điện truyền tải nói riêng. Ghi nhận ý kiến về các tồn tại của phát triển NLTT thời gian qua, ÐVTV giải thích: Quy mô nguồn NLTT đề xuất trong dự thảo QHÐ8 thực tế phù hợp với mục tiêu đặt ra trong Nghị quyết 55-NQ/TW. Ðó là tỷ lệ nguồn NLTT trong tổng cung năng lượng sơ cấp (tương ứng với tỷ lệ điện năng của NLTT trong tổng điện năng sản xuất toàn quốc) là khoảng 30% năm 2030 và 40% năm 2045. Quyết định số 2068/QÐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 25-11-2015 về Chiến lược phát triển nguồn NLTT của Việt Nam giai đoạn đến 2030 định hướng đến 2050 cũng nêu rõ: Mục tiêu phát triển NLTT đạt 32% năm 2030 và 43% năm 2050. Có thể nói, chính sách về mục tiêu NLTT trong QHÐ8 đã là tỷ lệ thấp nhất phải đạt được. Mặt khác, mô hình quy hoạch lựa chọn phát triển NLTT vượt mức thấp nhất, chứng tỏ chi phí đầu tư của nguồn NLTT dự báo trong tương lai thấp; việc tăng cường phát triển NLTT hơn so với mục tiêu vẫn bảo đảm là phương án nguồn điện có chi phí thấp nhất.
Không ít góp ý khác cũng kiến nghị trong QHÐ8 không cần phát triển thêm các dự án điện than mới, nhất là trong giai đoạn 10 năm tới, thay vào đó ưu tiên phát triển NLTT như điện mặt trời và điện gió. Một số ý kiến còn đề nghị cụ thể việc loại bỏ vị trí quy hoạch các nhà máy nhiệt điện (NMNÐ) than trong Quy hoạch điện VII điều chỉnh, phần công suất thiếu hụt sẽ bù bằng nguồn điện LNG (điện khí hóa lỏng) do các NMNÐ than thường gây ô nhiễm môi trường, lại khó thu xếp vốn đầu tư. Giải trình các ý kiến này, đơn vị tư vấn cho rằng: Quy mô các NMNÐ than đưa vào giai đoạn 2021 – 2035 đều là những dự án sẽ xây dựng vì đã thực hiện công tác xúc tiến đầu tư tốt, thí dụ như dự án nhiệt điện Nam Ðịnh I, Thái Bình II, Vũng Áng II, Vân Phong I hay Duyên Hải II,… Không những vậy, sau năm 2035, hệ thống vẫn cần tiếp tục phát triển một phần nhỏ nhiệt điện than để bảo đảm tiêu chí an ninh năng lượng cũng như giá điện không tăng quá cao. Trong khi nếu chọn phát triển NMNÐ khí LNG thay than với chi phí sản xuất điện lớn, giá điện sẽ tăng cao hơn nhiều cộng thêm chi phí hệ thống cũng sẽ tăng khoảng hai tỷ USD/năm so với kịch bản có phát triển điện than. Ðiều này không phù hợp với tiêu chí quy hoạch nguồn điện theo chi phí tối thiểu đã đặt ra. Riêng để giải quyết vấn đề ô nhiễm của điện than, QHÐ8 cũng yêu cầu các NMNÐ than xây mới phải sử dụng công nghệ sạch. Cụ thể, trong giai đoạn 2021 – 2025 chỉ xây dựng NMNÐ sử dụng công nghệ lò hơi siêu tới hạn trở lên; giai đoạn từ 2025 – 2035 chỉ sử dụng công nghệ trên siêu tới hạn (USC) trở lên và sau năm 2035 chỉ sử dụng công nghệ trên siêu tới hạn cải tiến (AUSC). Thực tế hiện nay, công nghệ cho điện than đã phát triển và tiến bộ vượt bậc, đáp ứng tốt nhu cầu giảm tiêu hao năng lượng và bảo đảm môi trường. Ngoài hiệu suất tăng cao so công nghệ cũ, các công nghệ mới cũng tiêu hao ít nhiên liệu và tài nguyên hơn, trong khi quá trình xử lý chất thải cuối nguồn đạt hiệu suất cao tương ứng, giúp giảm đến mức thấp nhất các tác động tiêu cực đến môi trường tự nhiên, hệ sinh thái và sức khỏe con người.
Ý kiến ()