Gần 12.000 lao động Việt Nam làm việc trên các tàu đánh cá nước ngoài
Hiện có gần 12.000 lao động Việt Nam đi làm việc trên các tàu đánh cá nước ngoài. Thị trường tiếp nhận chủ yếu là Hàn Quốc. Thuyền viên Việt Nam được đánh giá có tay nghề tốt, chăm chỉ và tiếp thu nhanh nên được các chủ tàu Đài Loan và Hàn Quốc tín nhiệm.
Thuyền viên tàu cá Việt Nam được chủ sử dụng Hàn Quốc, Đài Loan đánh giá cao |
Cục Quản lý lao động ngoài nước phối hợp với Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo vừa đánh giá về hoạt động đưa người lao động thuộc các xã bãi ngang ven biển và hải đảo đi làm việc trên tàu cá nước ngoài.
Đại diện 20 doanh nghiệp cung ứng thuyền viên đi làm việc trên các tàu cá của Đài Loan, Hàn Quốc, 8 Sở Lao động-Thương binh và Xã hội các địa phương ven biển miền trung, các huyện có các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo của 2 tỉnh Phú Yên, Bình Định đã cùng đánh giá về thực trạng tình hình hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc trên tàu cá nước ngoài. Qua đó, các đơn vị đã phân tích những thuận lợi cũng như những khó khăn trong việc tuyển chọn, đào tạo, quản lý và đưa người lao động thuộc các xã bãi ngang ven biển và hải đảo đi làm việc ở nước ngoài từ các doanh nghiệp và địa phương.
Việt Nam bắt đầu đưa thuyền viên đi làm việc trên tàu cá nước ngoài năm 1992, đến nay đã có gần 40 doanh nghiệp cung ứng thuyền viên tàu cá. Trong 3 năm qua, bình quân mỗi năm có 4.000 thuyền viên Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Trong đó có gần 1.000 lao động thuộc các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển vào hải đảo. Hiện, có gần 12.000 lao động Việt Nam đi làm việc trên các tàu đánh cá nước ngoài. Thị trường tiếp nhận chủ yếu là Hàn Quốc (9.400 thuyền viên) và Đài Loan (2.300 thuyền viên). Phần lớn người lao động làm công việc nuôi trồng hải sản và đánh bắt trên các tàu cá ven biển Hàn Quốc, Đài Loan ( 9.000 lao động, chiếm 75% tổng số), số còn lại làm việc trên các tàu cá xa bờ ở các vùng biển quốc tế.
Địa bàn tuyển chọn thuyền viên chủ yếu là các địa phương ven biển miền trung bao gồm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị…
Về chất lượng lao động, thuyền viên Việt Nam được đánh giá có tay nghề tốt, chăm chỉ và tiếp thu nhanh nên được các chủ tàu Đài Loan và Hàn Quốc tín nhiệm. Theo Phó Cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước Nguyễn Gia Liêm, có được điều này là do công tác tuyển chọn, đào tạo và quản lý thuyền viên được chú trọng.
Ngoài việc sàng lọc, tuyển chọn những thuyền viên có kinh nghiệm đi biển ở trong và ngoài nước, có đủ sức khỏe và nhân thân tốt để đưa vào đào tạo và bồi dưỡng kiến thức cần thiết. Các doanh nghiệp đều có cơ sở đào tạo hoặc liên kết để đào tạo thuyền viên từ 2-3 tháng bao gồm bồi dưỡng kiến thức cần thiết, đào tạo tiếng Hàn hoặc tiếng Trung cơ bản, rèn luyện các kỹ thuật đánh bắt hải sản, an toàn vệ sinh tàu cá và rèn luyện thể chất.
Tuy nhiên, theo đánh giá của các doanh nghiệp, thị trường tiếp nhận thuyền viên tàu cá chưa được mở rộng, chủ yếu vẫn là Đài Loan, Hàn Quốc, ngoài ra Nhật Bản và Hawaii (Mỹ) có tiếp nhận với số lượng ít. Đây cũng được coi là một nghề nặng nhọc và nhiều rủi ro, đặc biệt là đối với các thuyền viên tàu cá xa bờ.
Theo Cục Quản lý lao động ngoài nước, để nâng cao hiệu quả trong hoạt động cung ứng thuyền viên, đặc biệt là thuyền viên tàu cá biển gần, cần sự phối hợp của doanh nghiệp, đối tác và chính quyền để thực hiện đồng bộ các biện pháp. Đối với các doanh nghiệp cung ứng, cần xây dựng quy trình tuyển chọn, đào tạo thuyền viên, nâng cao chất lượng phái cử, quản lý thuyền viên và hỗ trợ thuyền viên trong quá trình làm việc theo hợp đồng.
Bên cạnh đó, chính quyền địa phương ven biển cần tăng cường thông tin, phổ biến các chương trình, điều kiện, quyền lợi và nghĩa vụ trách nhiệm khi đi làm thuyền viên tàu cá nước ngoài đặc biệt là tàu cá biển gần, nuôi trồng hải sản gần bờ đến người lao động.
Cuối cùng, cần có chính sách hỗ trợ vay vốn đối với người lao động, tạo điều kiện thuân lợi cho người lao động đi làm thuyền viên tàu cá; hỗ trợ người lao động hồi hương, tái hòa nhập thị trường lao động trong nước sau khi hoàn thành hợp đồng.
Theo Chinhphu
Ý kiến ()