
Đòn phủ đầu sấm sét làm lung lay ý chí Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Quyết chiến điểm Buôn Ma Thuột
Nửa thế kỷ đã trôi qua, những người lính từng tham gia trận đánh Buôn Ma Thuột (tỉnh Đắk Lắk) năm xưa nay tóc đã bạc. Thế nhưng, mỗi khi nhắc đến trận chiến lịch sử ấy, lòng họ vẫn bừng lên niềm tự hào. Những ký ức về cuộc chiến hào hùng vẫn in đậm trong tâm trí các nhân chứng lịch sử.
Lật giở từng trang ký ức, ông Tô Tấn Tài (tên thường gọi là Ama H’Oanh, SN 1932, trú tại TP Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk), nguyên Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Đắk Lắk từ năm 1987-1997 đã kể cho chúng tôi nghe câu chuyện về những ngày lịch sử cách đây 50 năm.

Ông Tô Tấn Tài, nguyên Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Đắk Lắk.
Nhìn về phía xa xăm, ông Tài hồi tưởng: “Cuối năm 1974, Bộ Chính trị đã tổ chức hai cuộc họp dài ngày để đánh giá tình hình chiến trường miền Nam. Sau khi đánh giá Mỹ không có khả năng trở lại và thời cơ đến sớm Bộ Chính trị quyết định huy động toàn lực trên cả nước, quyết tâm đánh bại địch, giải phóng miền Nam. Đồng thời, Trung ương quyết định chọn chiến trường Tây Nguyên là chiến trường chính trong năm 1975, trong đó Buôn Ma Thuột được chọn làm địa điểm để mở chiến dịch”.
Việc chọn Buôn Ma Thuột làm mục tiêu quyết chiến trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 có ý nghĩa chiến lược hết sức quan trọng. Buôn Ma Thuột nằm trên trục đường 14, 21 thuận lợi cho việc phát triển chiến đấu ra các tỉnh Tây Nguyên, xuống duyên hải miền Trung và vào Nam Bộ. Hơn nữa, đây cũng là nơi có vị trí chiến lược quan trọng ở Nam Tây Nguyên nhưng lại tương đối cô lập xa các trung tâm quân sự lớn, hạn chế sự chi viện lớn của địch. Hơn thế nữa, Buôn Ma Thuột và vùng phụ cận có địa thế rất thuận lợi cho tác chiến hợp đồng binh chủng, nhưng ta chưa dùng chủ lực lớn đánh vào Thị xã nên địch bố trí binh lực ở đây có sơ hở hơn so với Pleiku và Kon Tum.
Do đó, một trận đánh lớn ở Buôn Ma Thuột sẽ tạo sự rung động mạnh về chiến lược, làm đảo lộn thế phòng thủ của địch ở Tây Nguyên, uy hiếp đồng bằng ven biển miền Trung, mở ra hướng tiến công quan trọng vào Sài Gòn".
Đánh địch bằng cả lòng dân
Cũng theo lời kể của nguyên Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Đắk Lắk, tháng 2/1975, đồng chí Bùi Sang (gọi là anh Chín Liêm), Phó Bí thư liên Khu ủy khu 5 dẫn một đoàn công tác vào làm việc với Thường vụ Tỉnh uỷ Đắk Lắk để hạ quyết tâm phải tấn công toàn diện trong toàn miền. Trong đó, đoàn công tác nhấn mạnh, tỉnh Đắk Lắk phải thực hiện được 2 mũi giáp công là phát động quần chúng nổi dậy và dùng quần chúng, các lực lượng để vận động binh lính địch ra trình diện.
Trong đó, đoàn công tác nhấn mạnh, tỉnh Đắk Lắk phải thực hiện được 2 mũi giáp công là phát động quần chúng nổi dậy và dùng quần chúng, các lực lượng để vận động binh lính địch ra trình diện.
Tiếp nhận chủ trương, Thường vụ Tỉnh ủy Đắk Lắk giao cho ông Tô Tấn Tài, lúc bấy giờ là Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Thị ủy Buôn Ma Thuột trực tiếp phụ trách Đội Công tác Chính trị, lên phương án phát động quần chúng trong nội thị. Đồng thời, đưa lực lượng vào phát động quần chúng để khi bộ đội đánh tới đâu thì có quần chúng ủng hộ tới đó.
Nhận nhiệm vụ, ông Tài đã khẩn trương xây dựng phương án bí mật phát động quần chúng nổi dậy tùy theo khả năng của từng tầng lớp nhân dân nhằm giảm thiểu tổn hại xương máu. Sau một thời gian ngắn, ông đã tập hợp được 120 người tham gia Đội Công tác Chính trị do mình làm chỉ huy.

Mũi tiến quân và pháo của quân giải phóng đánh vào thị xã Buôn Ma Thuột (Ảnh Bảo tàng Đắk Lắk).
Để từng bước tiếp cận, tiến vào nội thị, Đội được chia ra làm nhiều trung đội, có phân công nhiệm vụ cụ thể.
“Lúc đó, chúng tôi chọn những phường trong Buôn Ma Thuột có nhân dân lao động đông nhất và được giác ngộ cách mạng nhiều nhất là phường Thành Công và phường Tân Tiến làm hai trọng điểm ở nội thị”, ông Tài nhớ lại.
Theo kế hoạch, sau khi lực lượng Đội Công tác Chính trị vào được nội thị thì phải nhập cho được vào hai phường này để phát triển ra. Với các chị em phụ nữ sau khi vào được nội thị thì đến bất kỳ nhà nào, thuyết phục dân cho mượn quần áo để thay nhằm trà trộn vào trong dân.
Đối với quần chúng trong nội thị, chú ý vào tầng lớp nhân dân lao động và lực lượng công nhân ở các sở cung cấp điện, nước và vận tải, thậm chí thâm nhập vào các chùa, nhà thờ... để làm công tác mặt trận, vận động người dân ủng hộ lực lượng của ta.
Khi mọi khâu chuẩn bị đã sẵn sàng, Đội Công tác Chính trị do ông Tài làm chỉ huy đã mật phục ngoài rừng, đợi lệnh nổ súng trong nội thị thì lập tức tiến vào.
Đêm trước ngày 10/3/1975, đơn vị của ông Đỗ Văn Đỗ (SN 1949, nguyên Trợ lý trinh sát Tiểu đoàn 3, Trung đoàn Pháo cao xạ 234 anh hùng, Quân đoàn 3, Bộ Tư lệnh B3) nhận được lệnh bí mật hành quân về hướng Tây Bắc Buôn Ma Thuột, bảo vệ cho bộ binh và xe tăng tiến đánh sân bay L19 của địch.
Đồng thời, sẵn sàng cùng với các lực lượng đánh thẳng vào ngã 6 Buôn Ma Thuột, Sư bộ 23 Quân lực Việt Nam cộng hòa và kho Mai Hắc Đế. Lúc đó, xe tăng đi trước, pháo cao xạ đi sau để bảo vệ xe tăng.
Khoảng 2h sáng 10/3/1975, Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên phát lệnh nổ súng tấn công vào thị xã Buôn Ma Thuột. Bộ đội đặc công đánh vào sân bay thị xã, Tổng kho Mai Hắc Đế, sân bay Hòa Bình. Hỏa tiễn H12 và các cụm pháo tập trung bắn vào Sư bộ 23 của địch.
Trong trận chiến khốc liệt năm đó, nhiều đồng đội của ông Đỗ đã ngã xuống. Ông xúc động nhớ lại: “Khoảng 9h45 ngày 10/3, máy bay địch bất ngờ ném bom xuống trận địa pháo của chúng tôi tại căn cứ địa phía Bắc thị xã Buôn Ma Thuột (nay thuộc phường Tân An, TP Buôn Ma Thuột), khiến cả 6 chiến sĩ thuộc Khẩu đội pháo 23 mm hy sinh tại chỗ. Khi quân ta tiến đánh sân bay L19, có một chiến sĩ bị trúng một mảnh đạn vào ngực trái và cũng hy sinh sau đó do mất máu quá nhiều”.
Biến đau thương thành sức mạnh, sau hơn 30 giờ đồng hồ chiến đấu quyết liệt, Quân Giải phóng đã hoàn toàn làm chủ thị xã Buôn Ma Thuột.

Ông Đỗ Văn Đỗ, nguyên Trợ lý trinh sát Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn Pháo cao xạ 234 anh hùng, Quân đoàn 3, Bộ Tư lệnh B3) nhớ lại giây phút quân ta làm chủ thị xã Buôn Ma Thuột.
Ở ngoài rừng, Đội Công tác Chính trị do ông Tô Tấn Tài làm chỉ huy cũng bám theo bộ đội chủ lực Trung đoàn 148 của Sư đoàn 316 ngay trong đêm. Khi đến gần tới vùng Ea Nuôl (huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk ngày nay), trời bắt đầu sáng, máy bay của quân địch bay khắp bầu trời nhưng lực lượng của ta vẫn men theo đường xe khai thác gỗ tiến vào nội thị. Đến trưa 11/3/1975, lực lượng của ta đã đánh sập đầu não của Sư bộ 23 của địch, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột.
Chiều 11/3, khoảng 20 người của Đội Công tác Chính trị xin đi cùng Ban chỉ huy Trung đoàn 148, thuộc Sư đoàn 316 để tiền trạm. Nếu vô lọt nội thị thì một số người trở ra để dẫn đường cho lực lượng còn lại vào.
Đêm 11/3, 20 người của Đội Công tác Chính trị vào tới khu vực chùa Khải Đoan (trên đường Phan Bội Châu, TP Buôn Ma Thuột ngày nay). Sau đó, ông Tài đã dẫn đường cho đoàn cán bộ chính trị còn lại đi theo con đường ô tô để vô nội thị.
Ngay sau khi vào thị xã, Đội Công an Chính trị đã phát huy tác dụng, hơn 100 người tỏa ra các nhà cơ sở, nhà đảng viên trung kiên, quần chúng tốt để tiếp xúc với nhân dân, giải thích cho họ kỳ này quyết giải phóng, đồng thời làm chủ luôn thị xã Buôn Ma thuột và tỉnh Đắk Lắk.
Đội cũng kêu gọi một số thanh niên trong nội thị đi đến các trường học vận động hàng nghìn học sinh tham gia đi vận động binh lính địch trở về, đồng thời bảo vệ các công sở mà địch bỏ chạy và quân ta đã đánh chiếm. Cứ như thế, bộ đội đánh chiếm chỗ nào thì lực lượng của ta tổ chức chiếm lĩnh, quản lý đến đó.
Từ ngày 12/3/1975 trở đi, lực lượng của Đội Công tác Chính trị thay nhau ghi chép danh sách quân đội Việt Nam Cộng hoà ra trình diện mà không kể ngày đêm.
“Có một kỷ niệm mà tôi nhớ mãi đó là khi hai bên đánh nhau, pháo ta và pháo địch nổ làm vỡ đường ống dẫn nước của nhà máy nước, đứt dây diện khiến cho toàn thị xã mất nước, mất điện nhiều ngày.
Sau đó, có 3 công nhân của công ty cấp thoát nước tìm đến Sở chỉ huy của Đội Công tác Chính trị đề nghị tôi cho một số đồng chí bộ đội đi bảo vệ để họ khôi phục lại các vị trí ống nước bị vỡ. Ngay lập tức, tôi đã cử một tổ đi bảo vệ để họ đi khôi phục lại nước sau 3 ngày vỡ ống. Đến ngày 15/3/1975, đã khôi phục được điện trên toàn thị xã Buôn Ma Thuột” - ông Tài cho biết.
Trong trận đánh Buôn Ma Thuột, ông Lê Chí Quyết (SN 1928, hiện trú tại TP Buôn Ma Thuột, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Quân quản tỉnh Đắk Lắk, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk) khi ấy đang công tác tại Tỉnh đội Đắk Lắk.
Ngay sau khi nhận được mật lệnh tấn công giải phóng Buôn Ma Thuột, ông được giao nhiệm vụ Phó Chủ tịch Thường trực, kiêm Bí thư Đảng ủy thị xã, phụ trách công tác quản lý và điều hành mọi hoạt động của thị xã bằng các biện pháp quân sự.

Ông Lê Chí Quyết, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Quân quản tỉnh Đắk Lắk, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk.
Ông Quyết cho hay, khi đó, quân địch bị ta đánh tan tác nên đã ẩn náu khắp nơi, thực hiện nhiều vụ cướp táo tợn nhằm trốn thoát. Lúc này, bộ đội ta nhanh chóng triển khai lực lượng truy bắt, đồng thời vận động quần chúng nhân dân kêu gọi các ngụy quân ra trình diện. Với tinh thần trách nhiệm cao, Ủy ban Quân quản đã giữ vững được trật tự an ninh tại thị xã, bảo vệ an toàn tính mạng của nhân dân.
Đòn phủ đầu chính quyền Việt Nam Cộng Hòa
Theo Đại tá, PGS, TS. Nguyễn Văn Sáu, Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự, nửa thế kỷ đã đi qua, nhưng Chiến thắng Buôn Ma Thuột vẫn mãi là chiến công quan trọng trong Chiến dịch Tây Nguyên nói riêng và trong Đại thắng mùa Xuân 1975 nói chung.
Chiến thắng Buôn Ma Thuật là đòn phủ đầu đối với chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa và mở ra thời cơ chiến lược cho những thắng lợi cuối cùng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.

Giải phóng Buôn Ma Thuột. (Ảnh tư liệu TTXVN)
Thắng lợi của trận đột phá Buôn Ma Thuột và trận đánh thắng cuộc phản kích của Sư đoàn 23 đã đẩy quân đội và chính quyền Việt Nam Cộng hòa hoang mang tột độ.
Trận then chốt mở đầu tiến công vào Buôn Ma Thuột đã mang ý nghĩa và tầm vóc chiến lược, đẩy địch mắc sai lầm về chiến lược: Được minh chứng bằng Chỉ thị ngày 14/3/1975 của Tổng thống - Tổng Tư lệnh quân đội Việt Nam Cộng hoà Nguyễn Văn Thiệu rằng: “Quân viện bị cúp, thiếu đạn và tiền, địch đánh mạnh hơn năm 1968, 1972; Kon Tum, Pleiku người ít, kinh tế không có, rút quân về cứu Buôn Ma Thuột và giữ vùng duyên hải”.
“Như vậy, chiến thắng Buôn Ma Thuột cùng với thắng lợi ở Thuần Mẫn và Đức Lập... đã làm đảo lộn thế bố trí phòng ngự của địch ở Tây Nguyên, buộc quân đội Việt Nam Cộng hoà phải rút bỏ Tây Nguyên - Đây là căn nguyên dẫn đến hàng loạt sai lầm như “hiệu ứng đôminô” tạo điều kiện cho ta tiến công như thế chẻ tre, tạo thế và lực và bước nhảy vọt về chất của cách mạng miền Nam “một ngày bằng hai mươi năm” - Điều ấy, càng khẳng định đòn tiến công thị xã Buôn Ma Thuột ở chiến trường Tây Nguyên thực sự là “đòn phủ đầu” đối chế độ Việt Nam Cộng hòa và tác động dây chuyền đến “quan thầy” của chế độ tay sai, phản động ở Oasinhtơn - nước Mỹ bên Tây bán cầu”, Đại tá Nguyễn Văn Sáu khẳng định.
Chiến thắng Buôn Ma Thuột đã giáng một đòn chí mạng vào quân địch, buộc chúng phải rút bỏ Tây Nguyên trong hỗn loạn.
Báo Le Mon (Pháp) số ra ngày 21 tháng 3 năm 1975 viết: “Trong vài ngày, bản đồ quân sự miền Nam bị đảo lộn. Chỉ có trận Buôn Ma Thuột mà khiến cho từng mảng lớn do chế độ Thiệu dựng nên đã bị sụp đổ. Hoá ra Buôn Ma Thuột mang cái đà của một bước ngoặt trong cuộc xung đột đến nay đã được 30 năm”[2]. Tờ Kinh tế (báo Anh), Số ra ngày 23/3/1975 viết: “Mất Buôn Ma Thuột là Thiệu không tài nào giữ nổi Tây Nguyên”.
Theo nhà sử học Mỹ George C. Herring, thất bại ở Tây Nguyên đã “phơi bày sự yếu kém về tinh thần” của quân đội Sài Gòn. Nhiều đơn vị tự giải tán hoặc đầu hàng mà không chiến đấu.
Trong cuốn "A Better War", tác giả Lewis Sorley thừa nhận, Mỹ đã không hiểu hết sức mạnh tổng hợp của đối phương: Sự ủng hộ của dân chúng, chiến tranh du kích, và khả năng tiếp tế qua đường Trường Sơn.
Trong hồi ký, Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger đã viết những lời cay đắng rằng: "Sự sụp đổ ở Tây Nguyên là dấu chấm hết cho bất kỳ hy vọng nào về sự tồn tại của Việt Nam Cộng hòa”.
Có thể nói, Chiến dịch Tây Nguyên là một đòn đánh chiến lược, điểm đúng tử huyệt, vị trí yếu nhất và nhạy cảm nhất của quân đội Việt Nam Cộng hoà.
Thượng tướng, Tiến sĩ Lê Huy Vịnh - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng khẳng định Chiến thắng Tây Nguyên biểu hiện sức mạnh Chủ nghĩa Anh hùng cách mạng, nghệ thuật quân sự, khẳng định sức mạnh Đại đoàn kết toàn dân và khát vọng hòa bình, thống nhất Tổ quốc của Nhân dân trên cả hai miền Nam, Bắc.
Xem thêm:
Tổng quan: Chiến dịch tổng tấn công Tây Nguyên: Cuộc đấu trí cân não chưa từng có
Phần 1: Cuộc đấu trí căng thẳng giữa tướng lĩnh 2 bên
Phần 2: Kế hoạch nghi binh hoàn hảo khiến quân địch đánh mất Buôn Ma Thuột
Phần 3: 'Voi thép' xuất trận và nỗi kinh hoàng của quân địch
Link gốc: https://vtcnews.vn/chien-dich-tay-nguyen-1975-don-giang-phu-dau-khien-chinh-quyen-viet-nam-cong-hoa-khiep-so-ar930718.html
Ý kiến ()